Tuesday, June 19, 2007

Bài phân tích của Đại Tá Hoàng Cơ Lân

(Phát biểu của cựu Y Sĩ Ðại Tá Hoàng Cơ Lân)
Trung Tân Trưởng TTÐH/ TTCSVNCH/ HN vùng Âu Châu

Paris, ngày 19 Tháng Sáu năm 2007

Thưa quý chiến hữu,
Thưa quý vị quan khách,
Cùng các bạn trẻ,

Năm nay, chúng ta kỷ niệm lần thứ 41 Ngày Quân Lực của nước VNCH thân yêu. Cựu quân nhân chúng tôi muốn năm nay nhắc lại ý nghĩa của ngày này cho những đồng hương sống ở nước ngoài đã lâu, và nhất là những bạn trẻ sinh đẻ nơi quê người hay đã cùng cha mẹ phải bỏ nước ra đi hồi còn ít tuổi. Họ thường có những thắc mắc như:

1. Ngày quân lực 19 Tháng Sáu là ngày kỷ niệm của quân đội nước nào vậy?
2. Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, tại sao các chú các bác vẫn hàng năm tổ chức kỷ niệm Ngày Quân Lực?

Bài thuyết trình của tôi, xin chia ra làm 3 phần, rất tóm tắt:

1. Sự hình thành của QLVNCH.
2. Chiến tranh Việt Nam do cộng sản gây ra.
3. Tìm hiểu lý do sự sụp đổ của miền Nam, trách nhiệm của Quân Lực Miền Nam.

Tôi xin được phép nhắc lại một ít lịch sử: Căn cứ Ðiện Biên Phủ do Liên Quân Pháp-Việt chống giữ thất thủ Tháng Năm, 1954, và trận này kết thúc chiến tranh Ðông Dương. Hiệp định Genève sau đó chia đôi đất nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17: miền Bắc Việt dưới chế độ cộng sản và miền Nam dưới quyền chính phủ quốc gia. Quân đội viễn chinh Pháp, mệnh danh là Corps Expéditionnaire Francais, và Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, quân số lúc đó là 279.200 người (170.000 cho lục quân, không quân 3.500, hải quân 3.700, địa phương quân 54.000, nghĩa quân 48.000) phải tập kết vào Nam. Ðầu năm 1956, những đơn vị cuối cùng của Quân Ðội Viễn Chinh Pháp rút khỏi Nam Việt Nam.

Sau khi đất nước chia đôi thì chính phủ miền Nam do Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm điều khiển (Quốc Trưởng Bảo Ðại thì ở bên Pháp). Ngày 23 Tháng Mười năm 1955, ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, truất phế của Bảo Ðại và được bầu làm Tổng Thống Ðệ Nhất Cộng Hòa. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá lật đổ và sát hại ngày 1 Tháng Mười Một, 1963. Nền Ðệ Nhất Cộng Hòa bị cáo chung.

Về khía cạnh quân sự thì miền Nam được hưởng vài năm yên bình, từ 1955 cho đến giữa 1958. Các cán bộ cộng sản nằm vùng, sau khi bộ đội chính quy cộng sản chính thức rút về Bắc theo hiệp định Genève, bắt đầu tổ chức khuấy phá, ám sát, phá hoại theo kiểu du kích chiến. Chiến tranh dần dần lan rộng, từ cấp tiểu đội, đại đội tới tiểu đoàn rồi trung đoàn. Ngay sau khi lực lượng Pháp rút lui, Mỹ gửi cố vấn đến thay thế.

Với đà gia tăng của chiến tranh, sau đây là quân số Quân Ðội Quốc Gia, biến thành Quân Lực VNCH từ năm:

  • 1959-1960: 243.000 người sau khi tổ chức lại.
  • 1964: 514.000 người.
  • 1967: 642.000 người.
  • 1968: 820.000 người.
  • 1969: 897.000 người.
  • 1970: 968.000 người.
  • 1971-1972: 1.051.000 quân với 410.000 lục quân, 50.000 không quân, 42.000 hải quân cùng 14.000 thủy quân lục chiến, 535.000 địa phương quân & nghĩa quân. Con số này không thay đổi nhiều cho đến hết cuộc chiến.
Sau khi chính phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ năm 1963, tình hình chính trị trong Nam càng ngày càng rối loạn, vài ông tướng quên bỏ trách nhiệm thi đua đảo chính, chỉnh lý. Bè phái bắt đầu lộ diện... Sai lầm bỏ các Ấp Chiến Lược giúp cho quân thù có thêm môi trường hoạt động theo chiến lược du kích chiến của Mao Trạch Ðông: quân với dân như cá với nước. CSBV chuyển thêm quân và vũ khí vào Nam, thành lập những chiến khu làm bàn đạp để tấn công thành thị. Bên Cao Miên, đối diện với vùng 3 Chiến Thuật, 3 Sư đoàn CS (Công trường 5, 7 và 9) thường trực trú đóng và có nhiệm vụ khuấy phá khu tam giác rộng lớn phía bắc Sài Gòn, từ Phước Long, Bình Long, Tây Ninh, xuống tận Bà Rịa, Bình Giả.

Tình hình quân sự suy sụp, và nước Mỹ mượn cớ này để đổ quân ồ ạt vào Miền Nam kể từ năm 1965. Trong thời gian cực điểm của chiến tranh, đã có 500.000 ngàn quân Mỹ có mặt tại Việt Nam. Thêm vào đó, 2 sư đoàn Ðại Hàn đóng ở vùng Bình Ðịnh, 1 sư đoàn Thái Lan trên đường đi Vũng Tàu, 1 trung đoàn Úc Châu và 1 tiểu đoàn pháo binh Tân Tây Lan, không kể những đơn vị yểm trợ y khoa Phi Luật Tân, Ðài Loan, Ðức Quốc...

Tình hình nhiễu nhương về chính trị (tôn giáo...) cộng thêm tình hình khẩn trương về quân sự khiến chính phủ dân sự của Thủ Tướng Phan Huy Quát trao lại cho quân đội trọng trách điều khiển quốc gia. Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965 đánh dấu quân đội đứng ra nắm chính quyền. Từ sau đó, mỗi năm, 19 Tháng Sáu là ngày lễ của quân lực được tổ chức đều đặn. Sau 1975, di cư ra ngước ngoài, anh em cựu quân nhân khắp nơi không quên ngày kỷ niệm này, nó thành ra ngày tưởng nhớ những đồng đội đã nằm xuống để miền Nam được sống tự do trong một phần tư thế kỷ.

Quân Lực VNCH, từ phôi thai đến trưởng thành và lý do đã tạo nên cuộc chiến Quốc-Cộng Nam-Bắc có một không hai trong lịch sử nước ta.

QLVNCH và tiền thân là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam từ đâu mà ra?

Ngay khi Hồ chí Minh ra lệnh tổng tấn công các vị trí của Pháp ngày 19 Tháng Mười Hai năm 1946, khởi diễn chiến tranh Ðông Dương, thì trong năm 1947 đã có lính Việt Nam chiến đấu trong các đơn vị Pháp. Theo một báo cáo đề ngày 21 Tháng Mươì Một năm 1947, có một năm sau, thì đã có 18.990 người bản sứ trong quân đội viễn chinh.

- Ngày 1 Tháng Giêng năm 1948 thành lập đơn vị nhảy dù Việt Nam đầu tiên (1ère Compagnie Indochinois de Parachutistes).

- Ngày 1 Tháng Hai năm 1948, tiểu đoàn bộ binh Ðông Dương (Bataillon de Marche Indochinois) được thành lập ở ngoài Bắc, với 64 quân nhân Pháp làm cán bộ chỉ huy và 539 binh sĩ gốc Bắc Việt. Sĩ quan Việt Nam thời đó rất hiếm, xin kể Thiếu Úy ND Nguyễn Văn Vỹ, sau này là trung tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng của chính phủ miền Nam.

Khi chiến tranh chấm dứt năm 1954, số người Việt Nam trong quân đội Pháp đã lên tới 108.000 (53.000 chính quy và 55.000 phụ lực - supplétifs). Nếu chỉ tính 53.000 chính quy thì người Việt đã chiếm 1/4 quân số quân đội Pháp (200.000 người). Ða số sau này được thuyên chuyển sang Quân Ðội Quốc Gia.

Cũng trong năm 1954, Quân Ðội Quốc Gia có 150.000 chính quy và 50.000 phụ lực.

Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được hợp thức hóa ngày 11 Tháng Năm năm 1950 bởi một hòa ước ký giữa Quốc Trưởng Bảo Ðại và Tổng Thống Vincent Auriol. Cán bộ những đơn vị này hầu hết là người Pháp. Trường sĩ quan hiện dịch đầu tiên được khai mạc tại Huế ngày 1 Tháng Mười Hai năm 1948, khóa đầu tiên tốt nghiệp ngày 1 Tháng Sáu năm 1949.

Ở đời, lẽ dĩ nhiên, một quốc gia tự lực tự cường không phải nhờ đến ai vẫn là nhất. Nhưng khi thân phận bé nhỏ, phải chọn giữa một tà thuyết tàn bạo và sự liên kết nhất thời với một đồng minh ngoại quốc (trước là Pháp, sau là Mỹ) thì dân Việt Nam, nếu được quyền ăn nói, đã chọn giải pháp thứ hai. Bài học rút tỉa là dân quê ít học, đã dám dấn thân trước giới trung lưu, thượng lưu nơi thành thị. Họ đã tòng quân trước tiên, có thể vì đồng lương, vì hoàn cảnh an ninh, cơm gạo... nhưng chúng ta không thể phủ nhận họ đã chiến đấu và hy sinh để làn sóng đỏ không phủ lên nước Việt Nam trong suốt những năm 1947-1975.

Chiến tranh kéo dài từ năm nọ qua năm kia, đạo quân viễn chinh không giải quyết được chiến trường. Năm 1949, quân Trung Cộng của Mao trạch Ðông tiến tới sát biên giới Hoa-Việt, và tiếp tế huấn luyện bộ đội Việt Minh ngày càng lớn mạnh.

Tháng Mười năm 1950, trên quốc lộ 4, nối liền Lạng Sơn đến Cao Bằng, quân Pháp đụng với những sư đoàn chính quy mới thành lập của đối phương, đã thảm bại mất đi 8 tiểu đoàn cùng rất nhiều vũ khí trong vòng có 3 tuần. Tình thế thật là nguy kịch, và đồng bằng Bắc Việt bị đe dọa nặng nề.

Chính phủ Pháp vội chỉ định Ðại Tướng De Lattre sang Ðông Dương với chức vụ tổng tư lệnh và cao ủy, tức là kiêm nhiệm quyền hành quân sự và dân sự. Ông tới Hà Nội ngày 19 Tháng Mười Hai năm 1950, thủ đô lúc đó xôn xao, quân đội Việt Minh vừa thắng lớn ở quốc lộ 4 muốn thừa thắng xông lên, và Võ Nguyên Giáp cho rải truyền đơn là sẽ vào Hà Nội ăn Tết 1951. Với tài chỉ huy điêu luyện, Tướng De lattre chuyển thêm quân từ trong Nam ra bằng máy bay, và chặn đứng các sư đoàn Việt Minh ở Vĩnh Yên (13-17 Tháng Giêng, 1951) cách Hà Nội không tới 100km, bẻ gãy chiến dịch thứ hai của Giáp tại Ðông Triều (23-30 Tháng Ba, 1951), và sông Ðáy (Tháng Năm và Sáu, 1951). Bắc Việt được cứu thoát.

Tướng De lattre nhận thấy Pháp không thể thắng bằng quân sự ở Ðông Dương và phải trả lại mau chóng độc lập toàn vẹn cho Việt Nam. Như vậy, Việt Nam phải có quân đội mạnh, lúc đầu với sự trợ giúp của quân đội Pháp, mới đứng vững được. Chính ông đã là người “đỡ đầu” thành hình Quân Ðội Quốc Gia, bằng cách “Việt Nam hóa”, hồi đó gọi là jaunissement các đơn vị chủ lực của Pháp. Ðơn vị nào cũng phải có người Việt Nam với một tỷ lệ từ 30 đến 50%, những thành phần sẽ là nòng cốt của quân đội Việt Nam tương lai (tất cả những đơn vị nhảy dù hay lê dương đều được tổ chức theo kiểu này). Ông cho mở các trường huấn luyện quân sự, như trường Võ Bị Ðà Lạt năm 1951, sau này được mở rộng và hiện đại hóa, trình độ không kém các trường Saint Cyr hay West Point. Ðể làm gương, con trai duy nhất của ông là Trung Úy Bernard de Lattre chỉ huy một đơn vị thiết giáp gồm toàn binh sĩ Việt Nam, đã tử trận tại Ninh Bình ngày 28 Tháng Năm năm 1951.

Mặc dầu mang tang con, ông đã đến dự lễ phát phần thưởng cuối niên học 1950-1951 tại trường trung học Chasseloup Laubat ở Saigon: “...Các bạn hãy tỏ ra xứng đáng. Nếu các bạn thích cộng sản thì các bạn hãy sang hàng ngũ Việt Minh, có những người bên bọn chúng chiến đấu giỏi nhưng cho một lý tưởng sai lầm. Nhưng nếu các bạn là người quốc gia thì chiến tranh này là chiến tranh của các bạn...” Lúc này cũng là lúc chính phủ quốc gia ký lệnh động viên quân địch.

Tháng Năm năm 1954, quân đội viễn chinh đã thua ở Ðiện Biên Phủ, nhưng ít người biết là 50% quân trú phòng của căn cứ là người Việt, Thái, Nùng... 5.075 quân nhảy dù Pháp-Việt đã bỏ mình trong trận Ðiện Biên Phủ, 2.495 người Pháp và gốc Âu Châu, 2.580 người Việt, trong đó có 629 SQ, HSQ và BS của Tiểu Ðoàn 5 ND/VN. Còn ai nhớ đến 1.000 tù binh dân công (PIM hay Prisonniers Internés Militaires) người Việt có mặt ngay từ phút đầu, với quy chế tù binh chiến tranh, họ đã phụ giúp đào hầm hố cho căn cứ, sau này tải đạn tiếp tế lương thức nước uống cho các cứ điểm khi trận chiến trở nên ác liệt, các lính tác chiến bị cầm chân tại chỗ. Trong mấy tuần cuối, đôi khi họ phụ bắn súng máy hay súng cối khi người lính chính quy ngã gục. Ðào ngũ sang phía Việt Minh thì quá dễ, vì khi giao tranh đôi bên chỉ cách nhau có vài chục thước, nhưng tính ra chỉ khoảng 1% là trốn sang Bác với đảng. Ước tính hơn một nửa số PIM này đã thiệt mạng tại Ðiện Biên Phủ. Số còn lại, sau khi phải thu dọn chiến trường cho kẻ thắng, có lẻ đã bị thanh toán hay chết mòn trong các lao tù, vì sau này không còn tông tích gì của họ nữa.

Tính ra trong chiến tranh Ðông Dương (1947-1954), 400.000 người Việt Nam và một ít các sắc tộc khác như Thái, Nùng, Miên, Lào... đã chiến đấu chống cộng sản trong hàng ngũ quân đội Pháp hay các quân đội quốc gia tân lập. Bè lũ Việt Minh không thể nào vỗ ngực cho mình độc quyền ái quốc, chống “thực dân Pháp”, đánh cho “Mỹ cút Ngụy nhào”.

Hiệp định Genève cắt đôi đất nước đã khiến cho 1 triệu người ngoài Bắc bỏ lại tất cả để sống tự do trong Nam. Với bản tính gian ác lừa lọc, cộng sãn đâu có rút hết ra Bắc như đã ký kết, và những thành phần nằm vùng lại bắt đầu phá hoại cùng phát động chiến tranh du kích từ năm 1957, đưa đến chiến tranh Việt Nam trở nên ngày càng khốc liệt với sự tham dự của Mỹ và các nước Ðồng Minh.

Quả thật như chiến lược gia Clausewitz đã nhận định: “Chiến tranh xảy ra không phải do bên bị tấn công mà do bên đi xâm lăng, vì có tấn công mới có tự vệ, và như vậy mới có chiến tranh.”

Nói về Quân Ðội Miền Nam trên 1 triệu người và chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 20 năm phải mất nhiều thời giờ lắm. Tôi xin cố vắn tắt để chúng ta tạm nắm được vấn đề, và để có thời giờ cùng thảo luận.

Sau khi năm 1956, Quân Ðội Việt Nam dần dần thay đổi theo tổ chức quân đội Mỹ. Quân số gia tăng như tôi đã trình bày, đến năm 1970 lên tới 1 triệu, phân phối như sau (kê khai rất sơ khởi):
  1. Vùng 1 chiến thuật ngoài Trung: SÐ1BB đóng tại Huế, SÐ2BB đóng tại Quảng Ngãi, SÐ3BB đóng tại Ðà Nẵng, LÐ1 kỵ binh thiết giáp, 4 TÐ pháo binh và phòng không, 4 LÐ/BÐQ, 1 LÐCB/ chiến đấu, SÐ1KQ đóng tại Ðà Nẵng với 6 phi đoàn khu trục và 6 phi đoàn vận tải trực thăng, các đơn vị yểm trợ khác.

  2. Vùng 2 chiến thuật ở vùng Cao Nguyên: SÐ22BB tại Qui Nhơn, SÐ23BB tại Ban Mê Thuột, LÐ 2 kỵ binh thiết giáp, 6 TÐ pháo binh, 5 LÐ/BÐQ, SÐ2 không quân tại Nha Trang với 6 không đoàn chiến thuật cùng các trường phi hành, SÐ6 không quân tại Pleiku với 2 không đoàn 72 và 82, các đơn vị yểm trợ khác.

  3. Vùng 3 chiến thuật xung quanh Sài Gòn: SÐ5BB tại Bình Dương (Lai Khê), SÐ18BB tại Long Khánh, SÐ25BB tại Củ Chi (Hậu Nghĩa), LÐ 3 kỵ binh thiết giáp, 2 TÐ pháo binh, Liên Ðoàn Công Binh Chiến Ðấu, 3 LÐ/BÐQ, SÐ3KQ tại Biên Hòa* với 6 phi đoàn khu trục và 6 phi đoàn trực thăng, SÐ5KQ tại Sài Gòn với 1 phi đoàn trực thăng và 9 phi đoàn vận tải, các đơn vị yểm trợ khác...

  4. Vùng 4 chiến thuật tại Hậu Giang: SÐ7BB tại Mỹ Tho, SÐ9BB tại Sa Ðéc, SÐ21BB tại Bạc Liêu, LÐ 4 kỵ binh thiết giáp, LÐ40 công binh chiến đấu, SÐ4KQ tại Trà Nóc (Cần Thơ) với 2 không đoàn 74 và 84, các đơn vị yểm trợ khác.
Vào thời bấy giờ, Không Quân VNCH đứng vào hàng thứ tư trên thế giới với 2.075 phi cơ đủ loại và 61.147.

Hải Quân cũng phát triển rất lớn: đến năm 1975, HQ/VNCH có tới 1.600 chiếc tàu đủ loại, 40.000 quân được tổ chức thành 2 Bộ Tư Lệnh: Trần Hưng Ðạo Biển và Trần Hưng Ðạo Sông. Thêm các trường huấn luyện và Hải Quân Công Xưởng tại Sài Gòn.

Lực Lượng Tổng Trừ Bị: SÐ/ND, SÐ/TQLC, LÐ81/ Biệt Cách Dù, LLÐB.

Làm sao kể hết cả trăm cả ngàn trận mà Quân Ðội Miền Nam đã tham dự để chống lại quân thù miền Bắc. Quý vị còn nhớ Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, những trận để đời của quân cán chính miền Nam và sức chịu đựng phi thường của người lính VNCH.

Xin vắn tắt về Tết Mậu Thân. Các bạn sống ở ngoại quốc từ nhỏ, không thể nào hiểu và biết được cái không khí thiêng liêng của ngày Tết. Mặc dù chiến tranh, Tết đến là 2 bên hưu chiến 3 ngày. Tùy theo tình hình, đơn vị trưởng chúng tôi có quyền cho binh sĩ đi phép đến 50% quân số, có đơn vị còn phải nhắm mắt cho đi hơn nữa. Ðôi khi về quê, binh lính của ta gặp cả người phía bên kia về ăn Tết với gia đình, thôi thì đôi bên làm ngơ như không thấy nhau. Tết mà!

Nhưng... đến năm 1967, Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Hà Nội đã lấy quyết định khác. Vì cứ tiếp tục chiến tranh theo kiểu này, thì thế nào cũng sẽ thua trước hỏa lực và tiềm năng hùng hậu của Hoa Kỳ; kinh tế ngoài Bắc kiệt quệ, sự hao mòn về nhân lực, tài lực đã đến mức báo động. Thà đánh “xả láng” một keo bạc, may ra gỡ lại được ván cờ:

  1. Nếu thắng sẽ làm giảm ý chí của Mỹ, ông Nixon có thể thất cử vào cuối năm, Mỹ phải bắt buộc trở lại bàn hội nghị và rút khỏi miền Nam, Quân Ðội Miền Nam có thể tan rã vì đa số quân nhân đi phép, cửa bỏ ngỏ cho “nhân dân nổi dậy” theo “cách mạng” (người cộng sản tuyên truyền riết rồi tưởng tuyên truyền mình là đúng).

  2. Nếu thất bại, thì lực lượng “Giải phóng miền Nam” tức Cộng Sản Nam Kỳ sẽ lãnh đủ (sự thật đã xảy ra như tiên đoán) và ngoài Bắc sẽ hoàn toàn nắm quyền chỉ huy sau này.
Ðầu năm dương lịch 1968, Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao Việt Cộng, còn ngỏ ý muốn hòa đàm cốt ý đánh lạc hướng chú tâm của Hoa Kỳ. Ít lâu sau đó, Hồ chí Minh đọc 4 câu thơ chúc Tết trên đài phát thanh Hà Nội, hàm ý gởi mật lệnh tổng tấn công. Nguyên văn 4 câu thơ này như sau:

“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên, toàn thắng ắt về ta.”

Khi nghe, chẳng ai tin và cho rằng những lời thơ này chỉ có tính cách khích lệ và cổ vũ cho một chiến thắng mơ ước xa xăm. Nhưng sự thật đó là lệnh Tổng Công Kích Tết Mậu Thân.

Trong đêm 30 Tháng Giêng năm 1968, tức đêm mồng 1 Tết, 84.000 quân Việt Cộng và Bắc Việt tấn công 36 tỉnh trên 44, 5 đô thị lớn trên 6, tất cả các phi trường và trên 100 làng và quận lỵ. Lệnh cho quân cộng sản là phải chiếm đóng các khu đông người và bình dân để dễ tuyên truyền và dùng dân làm bia đỡ đạn khi phải giao tranh với Quân Ðội Cộng Hòa.

Trái với ước đoán của phia cộng sản, dân miền Nam không nổi dậy theo “cách mạng” mà lại tìm đủ mọi cách để chạy về vùng Quốc Gia. Quân ta, nhiều nơi chỉ còn 30% quân số đã chống trả mãnh liệt, địch không chiếm được một nơi nào trừ 3/4 thành phố Huế bị địch chiếm đóng 3 tuần và tàn sát cả bao ngàn dân như mọi người biết. Quân đội Mỹ thì chỉ chống trả khi bị tấn công, ngoại trừ thủ đô Sài Gòn được 5.000 quân của Tướng Weyand tiếp cứu ngay sáng mồng 2 Tết, và Huế được TQLC Mỹ tiếp tay với quân ta 1 tuần lễ sau khi cộng sản chiếm thành phố.

Số thương vong của cộng sản trong tháng đầu Mậu Thân (29/1 đến 29/2, 1968) là 45.000 chết được phân chia như sau: 18.600 quân chính quy, 9.000 quân lo tiếp vận, 12.400 du kích, 5.000 cán bộ hay chính trị viên. Ðến cuối Tháng Ba nam 1968, con số này lên tới 58.363 người. Ta bắt được 9.461 tù binh.

Cộng sản đã sát hại khoảng 7.000 thường dân trong thời gian chiếm Huế. Các mồ tập thể được khai quật từ sau khi ta chiếm lại Huế, từ ngày 24 Tháng Hai năm 1968 cho đến cuối năm 1969 đã cho phép kiếm lại được 5.000 thi thể. Ðến nay vẫn còn 2.000 người mất tích. Trên toàn quốc, 14.300 thường dân đã bỏ mạng trong trận này, 24.000 người đã bị thương, 72.000 người mất hết nhà cửa, 627.000 phải tị nạn.

Tổn thất quân đội ta đến cuối Tháng Ba năm 1968 là 4.954 hy sinh, 15.097 bị thương, 926 mất tích. (tại SÐND sĩ quan chết và bị thương nhiều hơn HSQ).

Tổn thất Ðồng Minh (Mỹ, Ðại Hàn, Úc): 4.124 hy sinh, 19.285 bị thương, 604 mất tích.

Thất bại nặng nề vừa chính trị vừa quân sự của cộng sản, nhưng đối với quốc tế và dư luận Mỹ, thì lại là một chiến thắng lớn. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này.

Nói đến Mậu Thân ngoài Trung, chúng ta không thể quên được Khe Sanh, căn cứ gần biên giới Lào-Việt mà tướng Giáp công hãm từ 20 Tháng Giêng năm 1968 để đánh lạc hướng tổng công kích sắp tới, và để cầm chân TQLC Mỹ tại đó. Hai sư đoàn Bắc Việt 304 và 325C cùng dân công tiếp vận, tổng cộng 45.000 người đã vây đánh Khe Sanh trong 77 ngày, từ 20 Tháng Giêng đến 5 Tháng Tư năm 1968, tức 22 ngày lâu hơn Ðiện Biên Phủ. Căn cứ do 6.000 binh sĩ thuộc SÐ3/ TQLC Mỹ phòng thủ cùng 600 binh sĩ Việt Nam thuộc TÐ.37/ BÐQ (TÐT Ðại Úy Hoàng Phổ) được không vận từ Phú Lộc đến Khe Sanh ngày 27 Tháng Giêng và trấn giữ phía Ðông căn cứ suốt trận đánh.

Dưới hỏa lực của quân trú phòng và yểm trợ phi pháo như thác lũ cửa KQ Mỹ, tướng Giáp, tưởng làm lại một Ðiện Biên Phủ thứ hai, đã phải rút 2 sư đoàn 304 và 325C gần như tan rã về Bắc. Hai đại đơn vị này kẹt ở Khe Sanh, không tiếp tay được cho mặt trận Huế. Báo chí Mỹ và ngoại quốc không hề đá động đến vai trò của TÐ/BÐQ Việt Nam. Tới đây, tôi thách đố bạn nào kiếm được cho tôi một bài báo ngoại quốc thời đó nói về đơn vị này tại Khe Sanh.

Với sự trợ giúp tận tình của Khối Cộng Sản Quốc Tế, coi thường mạng sống của dân Việt, đảng cộng sản ngoài Bắc lại chỉ thị cho tướng Giáp sửa soạn một cuộc tấn công quy mô khác vào năm 1972, với phương tiện hùng hậu pháo binh và thiết giáp (lần đầu thấy xuất hiện xe tank T.54 Nga Sô). Trận chiến kéo dài trong 3 Tháng Tư, Năm và Sáu 1972 mệnh danh Mùa Hè Ðỏ Lửa, đã tỏ cho thế giới sự can trường của người lính VNCH, khi họ được chỉ huy đàng hoàng và đúng mức.

Mở màn là trận mưa pháo trên chiến trường Quảng Trị, rồi đến Cao Nguyên, dọc vùng Duyên Hải, rồi đến vùng 3 chiến thuật tại Bình Long, phía Bắc Sài Gòn. Ðịch chiếm thị xã Lộc Ninh ngày 7 Tháng Tư 1972 gần biên giới Cao Miên, 20km về phía Nam là An Lộc, nằm trên quốc lộ 13 nối liền với Sài Gòn. Mất An Lộc là Sài Gòn bị đe dọa. Trong vùng, địch sử dụng 3 sư đoàn (công trường) 5, 7 và 9, SÐ pháo 75 trang bị thêm súng phòng không và 3 TÐ thiết giáp. Trận An Lộc kéo dài hơn 2 tháng từ 13 Tah1ng Tư năm 1972 đến 29 Tháng Sáu 1972 ngày mà An Lộc được giải tỏa bởi tiếp viện từ phía Sài Gòn lên... An Lộc dược Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân của ta chống giữ và lữ đoàn 1 nhảy dù cùng liên đoàn 81 biệt cách dù đến tăng cường sau.

Thị xã bị pháo của địch cày nát, nhưng địch không sao chiếm nổi mặc dầu nhiều đợt xung phong có thiết giáp yểm trợ. Bên ta được không quân Việt-Mỹ (B.52) yểm trợ tối đa, kể cả tiếp tế thả dù (3.686 tấn đạn dược, xăng nhớt, lương thực, thuốc men).

Quân số hai bên trong 2 tháng giao tranh là phe ta: 6.350, địch: 18.000.

Thương vong: phe ta, chết: 2.280, bị thương: 8,564, mất tích: 2.091. Ðịch: chết 6.464, tù binh: 56.

Ðể kết luận, chúng ta hãy so sánh trận đánh An Lộc với trận Ðiện Biên Phủ cách đây hơn 50 năm:

- Quân Liên Hiệp Pháp có gần 13.000 người ở Ðiện Biên Phủ, trong khi ở An Lộc quân trú phòng chỉ được 6.350 người, lúc đông nhất.

- Chu vi Ðiện Biên Phủ là 16km X 9km, tỉnh lỵ An Lộc chỉ dài rộng có 2km X 1km. Tại Ðiện Biên Phủ lúc khởi đầu trận đánh, có nơi pháo binh Bắc Việt không bắn tới, trong khi đó thì An Lộc lãnh pháo ngay ngày đầu.

- Tại Ðiện Biên Phủ, pháo binh Pháp có 28 khẩu 105 và 155 ly, 24 súng cối 120 ly. An Lộc chỉ còn 1 khẩu 105 sau ngày 13 Tháng Tư năm 1972.

- Pháp có 10 chiến xa ở điện Biên Phủ, tại An Lộc quân trú phòng không có chiến xa mà CSBV lại có 3 tiểu đoàn thiết giáp.

- Căn cứ Ðiện Biên Phủ bị 200.000 quả pháo, An Lộc lãnh 70.000 trái nhưng diện tích An Lộc chỉ độ 1/10 diện tích Ðiện Biên Phủ. Nếu tính theo tỷ số thì An Lộc bị pháo nhiều hơn Ðiện Biên Phủ!

- Những sự kiện này chứng minh là người lính VNCH, khi được chỉ huy đúng mức, can trường còn hơn người lính Bắc Việt. Không bị nhồi sọ, không có “chính trị viên” khủng bố tinh thần, họ biết giá trị thiêng liêng của chữ “Tự Do” và chấp nhận chiến đấu hy sinh cho gia đình và xứ sở.

Vậy ý nghĩa Ngày Quân Lực hôm nay là để chúng ta tưởng nhớ đến người lính VNCH, mà có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như vậy!

Học giả Phạm Kim vinh trong cuốn “Thiên Anh Hùng Ca” việt cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã tả những người lính chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn hai mươi năm, họ đi qua một con đường dài của lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa Vạn Lý Trường Chinh của Mao trạch Ðông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý, còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến thời Trung cổ.”

Vậy tại sao một quân đội hơn 1 triệu người, đầy kinh nghiệm chiến đấu, với 300.000 thương vong trong một chiến tranh kéo dài 25 năm, đã tan hàng trong có 55 ngày, làm cả thế giới và ngay đối phương phải ngỡ ngàng...?

Ai cũng biết câu nói bất hủ của Clausewitz: “Chiến tranh là sự nối tiếp của chính trị dưới hình thức khác” (La guerre est la continuation de la politique par d'autres moyens)”. Khi lâm chiến, nếu không thắng thì chỉ có thua, chứ không có giải pháp trung dung nào có thể thay thế chiến thắng (In war, there is no substitude for victory - Gen. Mc Arthur). Vì vấn đề sống còn và tại thân phận nhỏ bé, chúng ta đã rơi vào quỹ đạo của ‘ông đồng minh’ Hoa Kỳ. Vậy chủ đích của Hoa Kỳ ở Việt Nam có phải là chiến thắng không? Câu trả lời tất nhiên là KHÔNG!

Kinh nghiệm chiến trường từ xưa tới nay, bắt các nước lâm chiến phải theo vài quy luật, nếu không muốn thất bại hay bị hủy diệt. Xin trình với quý vị vài quy luật chính về chiến tranh mà tôi đã học được tại trường chỉ huy tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ, và cũng theo trường tham mưu đó, hầu hết các quy luật về chiến tranh đã không được tôn trọng trong chiến tranh Việt Nam:


1. Ấn định mục tiêu và kiên trì để đạt mục tiêu đó (La definition et la persistance du but à atteindre). Ðánh mà không muốn thắng thì đâu có phải là một mục tiêu để lâm chiến. Bằng cớ là bức thư Tổng Thống Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu hồi Tháng Năm năm 1972, ngay cả Mùa Hè Ðỏ Lửa: “...quý quốc và Hoa Kỳ có bao giờ muốn đánh bại Bắc Việt bằng quân sự đâu, chúng ta chỉ muốn chấm dứt cuộc chiến này bằng giải pháp điều đình...” Trong khi đó thì mục tiêu tối hậu của cộng sản Bắc Việt là muốn thôn tính miền Nam bằng mọi giá. Tại sao thái độ này? Hoa Kỳ sợ gây chiến với Tàu hay với Nga, hay có lý do thầm kín khác?

Cho nên quân sĩ miền Nam chỉ có chống đỡ, chúng ta không có quyền đánh ra Bắc, cho tới mấy năm cuối của chiến tranh, QLVNCH không có quyền truy kích quân cộng sản sang Cao Miên hay Lào; máy bay của chúng ta không đủ khả năng bay ra oanh tạc Hà Nội rồi trở về, những phi vụ này dành cho không lực Hoa Kỳ. Mà ngay phi công Hoa Kỳ cũng bị trói tay trên bầu trời Bắc Việt bởi những luật lệ quái gở, tóm tắt gọi là rules of engagement: một cái cầu hôm nay được oanh tạc, ngày mai không được nữa; một giàn hỏa tiễn SAM đang được hoàn thành cũng không được oanh kích, vì sợ bắn phải cố vấn Nga (?);máy bay MIG đậu dưới đất cũng không được phá trừ trường hợp máy bay này ở trên không và tỏ ra có ý định gây hấn (hostile intentions); cấm ngặt không được bắn phá đê điều... Lệnh ban ra từ Tòa Bạch Ốc! Tướng tá Mỹ than phiền là phải đánh nhau với một cánh tay bị “trói ra sau lưng”!


2. Thống nhất chỉ huy (Unité de commandement). QLVNCH và Hoa Kỳ đều có bộ chỉ huy riêng biệt và ngay trong QL Hoa Kỳ cũng có những tổ chức chỉ huy khác nhau: TQLC ngoài Trung thì thuộc CINC/PAC, hạm đội 7 tại Hawaii, không quân Mỹ thì dưới quyền không lực 13 (13th Air Force) bên Phi Luật Tân, lục quân thì thuộc quyền xài xể của Tướng Westmoreland USARV ở Sài Gòn. Như vậy thì làm sao phối hợp tình báo và điều hành để nhanh chóng đạt chiến thắng?


3. Dồn nỗ lực cho một mục tiêu chính trong một thời gian nhất định (Concentration des efforts) không được đúng mức cũng vì những lý do nêu trên: Lam Sơn 719, hành quân sang Cao Miên.


4. Dành được thế bất ngờ (Obtention de l'effet de suprise). Bất ngờ điển hình là địch đánh Tết Mậu Thân mà ta không biết. Kinh nghiệm bản thân còn nhiều ví dụ khác.


5. Thế chủ động (Initiative et offensive): Vì phải trải quân giữ địa thế, giữa an ninh cho đồng bào sinh sống, thường thường địch nó dành thế chủ động, rồi ta chống đỡ, cũng may là quân đội ta vững.


6. Ðơn giản và tiết kiệm trong hành động (La simplicité et l'économie). Quân đội Hoa Kỳ mang thử vũ khí trên chiến trường miền Nam, phương tiện khổng lồ, phung phí, nên quân đội ta cũng chịu ảnh hưởng “tính xấu” đó, rồi quen không biết đánh nhau theo kiểu “nhà nghèo” nữa.


7. Tinh thần và tuyên truyền (Moral et propagande). Chiến tranh kéo dài quá lâu, và sức chịu đựng của quân sĩ cũng bị ảnh hưởng, nhất là lương quân đội không đủ ăn, mà người lính thấp cổ bé miệng chịu thiệt thòi nhất. Từ đó xảy ra tệ đoan như tham nhũng...

Ðược tự do hơn ngoài Bắc, thường dân thờ ơ với cuộc chiến. Tác động tinh thần của ta ở ngoại quốc rất kém. Ai cũng phải công nhận là những sứ quán của ta phần đông là chỗ bồ bịch cho con ông cháu cha hay những kẻ “lạnh cẳng” trốn nghĩa vụ (đáng lẽ những người được phái đi nước ngoài phải là cán bộ đã có công với đất nước, ví dụ những quân nhân mang thương tích nặng...)

Trong khi đó thì phe cộng sản dồn hết nỗ lực vào mục tiêu này để nắm các sinh viên du học, và các báo chí nước ngoài (ví dụ Tết Mậu Thân). Ðược biết đài phát thanh Hà Nội bắt được ở Paris, trong khi dân chúng miền Bắc chết đói, còn đài Sài Gòn thì sao? Nhờ bộ máy tuyên truyền của thế giới cộng sản, chiến tranh Việt Nam đã trở nên một đề tài hoàn toàn bất lợi cho VNCH. Quân Bắc xâm lăng thì được coi là anh hùng, những vụ man rợ như giết chóc ám sát, các mồ tập thể ở Huế thì được báo chí quốc tế lướt qua. Còn VNCH thì bị sỉ vả không ngớt. Tệ hại là các phương tiện truyền thông của Mỹ cũng đều phụ họa theo đường hướng của cộng sản (Tết Mậu Thân, so sánh với Ðông Ðức-Tây Ðức). Bên Pháp thì chỉ có vài tờ báo của phe cực hữu ủng hộ miền Nam (báo Présent với hình ảnh SVSQ Ðà Lạt trên cầu xa lộ), ít phóng viên khác...

8. Tiêu diệt lực lượng địch (Anéantissement des forces de l'ennemi). Không đổ bộ ra Bắc thì 1 triệu quân Cộng Hòa, 500.000 quân Mỹ cùng các đồng minh khác cũng chẳng đạt được mục tiêu này khi chỉ giữ thế thủ ở miền Nam.

Trên mọi phương diện, ta hoàn toàn trông cậy vào Mỹ, và Mỹ đã cố ý gây ra tình trạng này để nắm quyền quyết định. Ngày nào Mỹ cúp viện trợ thì ta chết. Ví dụ ta không được làm xưởng chế đạn, không được lập ngân hàng quân đội, tiếp liệu quân y hoàn toàn của Mỹ, hàng hóa PX tràn ngập thị trường.

9. Sự kém cỏi của một số chỉ huy cao cấp Quân Ðội Cộng Hòa: Tiên trách kỷ, hậu trách nhân, chúng ta phải thẳng thắn và can đảm nhìn nhận những yếu kém của chúng ta. Tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng chúng ta đã có một số người chỉ huy bất xứng, quân đội hồi đó chưa đủ cán bộ có tài để nắm tất cả những chức vũ then chốt, hoặc người có khả năng không đủ “cổ cánh” bị gạt sang bên “ngồi chơi xơi nước”, có người chiến đấu giỏi thì không được đi học thêm (tư lệnh sư đoàn đôi khi chỉ có kiến thức tiểu đoàn trưởng hay kém hơn), cho phép gia đình lợi dụng hoàn cảnh để làm bậy. Rút lui miền Trung và miền Cao Nguyên là một thí dụ điển hình về sự bất tài điều quân, từ người ra lệnh cho đến người thi hành: di tản miền Cao Nguyên qua quốc lộ 7 là phạm tất cả những lỗi lầm trong một hành quân triệt thoái...

Nếu cấp lãnh đạo và tướng tá của ta giỏi và yêu nước, thì có lẽ thế sự đã đổi khác, hoặc nếu phải chết vì hết tiền viện trợ thì còn lâu mới chết, và cũng chết vinh chứ không chết nhục như hồi Tháng Tư năm 1975. Có một giả thuyết khác: hay là có sự sắp đặt trước rồi? Chả nhẽ cấp chỉ huy miền Nam lại ngu đến thế. Dọn nhà ra riêng còn mất vài ngày, ngỡ đây lại dọn một quân đoàn trong có 2-3 ngày mà không được chuẩn bị gì hết? Xe tank cộng sản chạy “phoong phoong” từ ngoài Bắc vào Sài Gòn, mà không có một cây cầu nào bị giựt sập...!!

Câu nói của Kissinger: “Sao chúng không chết phứt đi cho rồi...!” khi tại vài nơi binh sĩ của ta còn tuyệt vọng cầm cự, nó vẫn còn văng vẳng nơi tai!

10. Nước Mỹ đã khai tử miền Nam bằng cách đi đêm với cộng sản, và cắt dần viện trợ từ 2 tỷ xuống còn 500 triệu cho tài khóa 1975 trong lúc nước ta đang chiến đấu để sống còn. Không kể những vụ hạ nhục chính quyền ta và bôi xấu QLVNCH. (Ðến Tháng Hai năm 1975, còn có một phái đoàn dân biểu Mỹ sang “thanh tra” Việt Nam, để kiếm thêm lý do cúp viện trợ. Họ đòi đi xem trại tù Côn Ðảo - hầm cọp để nhốt tù nhân chính trị - gặp thành phần tôn giáo chống đối - mà sau này chúng ta đều biết là thân Cộng hoặc bị cộng sản giật dây. Mac Closky đòi cúp hết viện trợ, Bella Abzug, Fenwich có thái độ lạnh nhạt và rất hỗn. Ðến nỗi Tổng Thống Thiệu đã phải thốt ra trong bữa tiệc khoản đãi phái đoàn này (tiệc cuối cùng tại Dinh Ðộc Lập của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa): “...quà tặng đã quan trọng, nhưng cách tặng quà còn quan trọng hơn nhiều...”

Rút cuộc, lý do chính của sự sụp đổ miền Nam là Mỹ không còn quyền lợi nào ở đó nữa. Ðơn giản là như vậy. Tôi còn nhớ câu buộc tội hồi năm 1975 của Triết gia Raymond Aron: “L'Amérique a commis le crime de non assistance à une nation alliée en danger de mort.” (Nước Mỹ đã phạm tội bỏ rơi một nước đồng minh trong cơn hấp hối.)

Chúng ta hãy chờ xem thế sự ở Trung Ðông hiện nay xoay dần ra sao, Mỹ sống còn với Israel vì nước này là tiền đồn giữ dầu hỏa ở Trung Ðông cho Mỹ...

Y Sĩ Ðại Tá Hoàng Cơ Lân
(Trích từ báo Người Việt)
Vài dòng tiểu sử của Y Sĩ Ðại Tá Hoàng Cơ Lân:

- Sinh năm 1932 tại Hà Nội.
- Trung học Albert Sarraut Hanoi và Yersin Dalat (1937-1950).
- Tốt nghiệp y khoa Ðại Học Saigon 1957.
- Sư đoàn nhảy dù từ năm 1957 đến 1970 (Y Sĩ Trung Úy đến Y Sĩ Trung Tá).
- Phụ tá Quân Y Lục Quân từ 1968 (kiêm nhiệm) đến 1971.
- Học chỉ huy tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas (1971-1972): Ðại Tá.
- Chỉ huy trưởng trường Quân Y (1972-1975).

No comments: