Friday, July 20, 2007

Câu chuyện ngày 30 tháng 4

Bấy giờ đúng 15 giờ.

Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên Ðại Tá Chính Ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Ð.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Ðại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung Sĩ Quang chỉ Ðại Tá Cẩn:
- Thưa Ðại Tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Viên Chính Ủy chỉ những xác chết nói với Ðại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Ð.M, chúng mày sẽ phải đền tội.
Ðại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung Sĩ Quang ngang tàng:
- Ðại Tá có lý tưởng của Ðại Tá. Tôi có lý tưởng của tôi. Ðại Tá theo Karl Marx, theo Lenin; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi... Tôi không gọi Ðại Tá là tên Việt Cộng. Tại sao Ðại Tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của Ðảng CS?
Viên Ðại Tá rút súng kê vào đầu Quang:
- Ð.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Ðại Tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại Tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Ð.M. Mày có chịu nhận mày là tên Ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là Ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là Ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu Ðại Tá có chính nghĩa tại sao Ðại Tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Ð.M. tên CS ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Ð.M. mày có nhận mày là tên VC không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười.

Tấm gương Thiếu sinh quân: Họ mới chính là những người hùng thật sự !

18 tuổi, các Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 của VNCH, năm 1975 khi binh biến đã lãnh đạo những Thiếu Sinh Quân còn sót lại trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu không di tản được, quyết chiến sinh tử với Việt Cộng trong ngày 30/4. 11h30 cờ đỏ bay trên nóc Dinh Độc Lập nhưng phải đến tận 3h chiều cùng ngày, vì đã cạn lương thực và đạn dược, các Thiếu Sinh Quân của chúng ta mới chịu chấp nhận thương thảo đầu hàng.

Địch đã tung hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này nhưng chúng đã gặp phải một lực lượng vũ trang đáng kể hiên ngang đương đầu với chúng. Cộng sản đã coi thường những chú lính sữa chưa bao giờ biết mùi trận mạc. Chúng bắt loa kêu gọi các em đầu hàng và buông lời hăm doạ ... Tiếng loa vừa dứt, Viêt Cộng nhận ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 700 tay súng tí hon. Tiếp theo là hàng trăm mũi súng nhắm thẳng vào bọn VC bên ngoài, phẫn nộ lảy cò. Vài tên Bộ Đội bị đốn ngã ngay trong loạt đạn đầu tiên. Bọn Viêt Cộng phải đứng khựng lại trước tinh thần quyết tử cuả 700 hậu duệ anh hùng Trần Quốc Toản. Chúng không giám tấn công ngay vì các em quá nhỏ và vì có sự hiện diện của đồng bào.
Cuộc chống cự kéo dài đến 3:00 chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho VC thương thảo. Họ đòi hỏi VC chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng ...

Và các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ KHÔNG ĐỂ CHO BỌN CS làm nhục lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền PHẢI THƯƠNG YÊU và BẢO VỆ.

Có chừng hơn một Trung Đội TSQ đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc Kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây ngọc bích. Hai TSQ lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào. Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài giây phút thiêng liêng cảm động này, nước mắt đầm đìa.

Tất cả TSQ từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà...., không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca.

Gần 700 giọng hát hùng tráng cát lên, vang khắp sân trường. Bọn bộ đội nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang đến tận bến Dâu, bến Đình............ Mọi người dân Vũng Tàu đã đều nghe và rung động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cùng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát.

18 tuổi, Trung Sĩ Vũ Tiến Quang cùng với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu anh dũng cho đến những giây phút cuối cùng của quốc gia VNCH. Bị giặc bắt nhưng họ vẫn không mảy may e sợ mà còn giương cao khí tiết của người con Miền Nam Đất Việt anh hùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng đầu hàng. Các đơn vị quân đội Miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ tẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sàigòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

Ðúng lúc đó tại Chương Thiện, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các Quận Trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:

"Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu."

Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn, vì mất tinh thần. Chỉ còn lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, có một Ðại Ðội Ðịa Phương Quân cùng nhân viên Bộ Tham Mưu. Ðến 13 giờ, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làm sóng cộng quân tràn vào trong Bộ Chỉ Huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng, kiêm Tiểu Khu Trưởng và một Trung Sĩ mới 19 tuổi. Trung Sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

18 tuổi, những người Thiếu Sinh Quân của VNCH dù chỉ mới được học chiến đấu trên sách vở, trên những lần tập dợt trong trường, chưa từng biết gì gọi là cầm súng đánh giặc thật sự nhưng đã anh dũng chiến đấu tử thủ cho đến cùng, cho đến khi lương cạn đạn kiệt mới chấp nhận ngưng chiến. 18 tuổi, những người Thiếu Sinh Quân này, cùng với những người lính đã anh dũng tuẫn tiết để không rơi vào tay giặc như Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ..., những người lính đã hy sinh thân mình để bảo vệ Miền Nam Tự Do như cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo..., họ mới chính là những người hùng thật sự!

Tuesday, June 19, 2007

Bài phân tích của Đại Tá Hoàng Cơ Lân

(Phát biểu của cựu Y Sĩ Ðại Tá Hoàng Cơ Lân)
Trung Tân Trưởng TTÐH/ TTCSVNCH/ HN vùng Âu Châu

Paris, ngày 19 Tháng Sáu năm 2007

Thưa quý chiến hữu,
Thưa quý vị quan khách,
Cùng các bạn trẻ,

Năm nay, chúng ta kỷ niệm lần thứ 41 Ngày Quân Lực của nước VNCH thân yêu. Cựu quân nhân chúng tôi muốn năm nay nhắc lại ý nghĩa của ngày này cho những đồng hương sống ở nước ngoài đã lâu, và nhất là những bạn trẻ sinh đẻ nơi quê người hay đã cùng cha mẹ phải bỏ nước ra đi hồi còn ít tuổi. Họ thường có những thắc mắc như:

1. Ngày quân lực 19 Tháng Sáu là ngày kỷ niệm của quân đội nước nào vậy?
2. Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, tại sao các chú các bác vẫn hàng năm tổ chức kỷ niệm Ngày Quân Lực?

Bài thuyết trình của tôi, xin chia ra làm 3 phần, rất tóm tắt:

1. Sự hình thành của QLVNCH.
2. Chiến tranh Việt Nam do cộng sản gây ra.
3. Tìm hiểu lý do sự sụp đổ của miền Nam, trách nhiệm của Quân Lực Miền Nam.

Tôi xin được phép nhắc lại một ít lịch sử: Căn cứ Ðiện Biên Phủ do Liên Quân Pháp-Việt chống giữ thất thủ Tháng Năm, 1954, và trận này kết thúc chiến tranh Ðông Dương. Hiệp định Genève sau đó chia đôi đất nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17: miền Bắc Việt dưới chế độ cộng sản và miền Nam dưới quyền chính phủ quốc gia. Quân đội viễn chinh Pháp, mệnh danh là Corps Expéditionnaire Francais, và Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, quân số lúc đó là 279.200 người (170.000 cho lục quân, không quân 3.500, hải quân 3.700, địa phương quân 54.000, nghĩa quân 48.000) phải tập kết vào Nam. Ðầu năm 1956, những đơn vị cuối cùng của Quân Ðội Viễn Chinh Pháp rút khỏi Nam Việt Nam.

Sau khi đất nước chia đôi thì chính phủ miền Nam do Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm điều khiển (Quốc Trưởng Bảo Ðại thì ở bên Pháp). Ngày 23 Tháng Mười năm 1955, ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, truất phế của Bảo Ðại và được bầu làm Tổng Thống Ðệ Nhất Cộng Hòa. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá lật đổ và sát hại ngày 1 Tháng Mười Một, 1963. Nền Ðệ Nhất Cộng Hòa bị cáo chung.

Về khía cạnh quân sự thì miền Nam được hưởng vài năm yên bình, từ 1955 cho đến giữa 1958. Các cán bộ cộng sản nằm vùng, sau khi bộ đội chính quy cộng sản chính thức rút về Bắc theo hiệp định Genève, bắt đầu tổ chức khuấy phá, ám sát, phá hoại theo kiểu du kích chiến. Chiến tranh dần dần lan rộng, từ cấp tiểu đội, đại đội tới tiểu đoàn rồi trung đoàn. Ngay sau khi lực lượng Pháp rút lui, Mỹ gửi cố vấn đến thay thế.

Với đà gia tăng của chiến tranh, sau đây là quân số Quân Ðội Quốc Gia, biến thành Quân Lực VNCH từ năm:

  • 1959-1960: 243.000 người sau khi tổ chức lại.
  • 1964: 514.000 người.
  • 1967: 642.000 người.
  • 1968: 820.000 người.
  • 1969: 897.000 người.
  • 1970: 968.000 người.
  • 1971-1972: 1.051.000 quân với 410.000 lục quân, 50.000 không quân, 42.000 hải quân cùng 14.000 thủy quân lục chiến, 535.000 địa phương quân & nghĩa quân. Con số này không thay đổi nhiều cho đến hết cuộc chiến.
Sau khi chính phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ năm 1963, tình hình chính trị trong Nam càng ngày càng rối loạn, vài ông tướng quên bỏ trách nhiệm thi đua đảo chính, chỉnh lý. Bè phái bắt đầu lộ diện... Sai lầm bỏ các Ấp Chiến Lược giúp cho quân thù có thêm môi trường hoạt động theo chiến lược du kích chiến của Mao Trạch Ðông: quân với dân như cá với nước. CSBV chuyển thêm quân và vũ khí vào Nam, thành lập những chiến khu làm bàn đạp để tấn công thành thị. Bên Cao Miên, đối diện với vùng 3 Chiến Thuật, 3 Sư đoàn CS (Công trường 5, 7 và 9) thường trực trú đóng và có nhiệm vụ khuấy phá khu tam giác rộng lớn phía bắc Sài Gòn, từ Phước Long, Bình Long, Tây Ninh, xuống tận Bà Rịa, Bình Giả.

Tình hình quân sự suy sụp, và nước Mỹ mượn cớ này để đổ quân ồ ạt vào Miền Nam kể từ năm 1965. Trong thời gian cực điểm của chiến tranh, đã có 500.000 ngàn quân Mỹ có mặt tại Việt Nam. Thêm vào đó, 2 sư đoàn Ðại Hàn đóng ở vùng Bình Ðịnh, 1 sư đoàn Thái Lan trên đường đi Vũng Tàu, 1 trung đoàn Úc Châu và 1 tiểu đoàn pháo binh Tân Tây Lan, không kể những đơn vị yểm trợ y khoa Phi Luật Tân, Ðài Loan, Ðức Quốc...

Tình hình nhiễu nhương về chính trị (tôn giáo...) cộng thêm tình hình khẩn trương về quân sự khiến chính phủ dân sự của Thủ Tướng Phan Huy Quát trao lại cho quân đội trọng trách điều khiển quốc gia. Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965 đánh dấu quân đội đứng ra nắm chính quyền. Từ sau đó, mỗi năm, 19 Tháng Sáu là ngày lễ của quân lực được tổ chức đều đặn. Sau 1975, di cư ra ngước ngoài, anh em cựu quân nhân khắp nơi không quên ngày kỷ niệm này, nó thành ra ngày tưởng nhớ những đồng đội đã nằm xuống để miền Nam được sống tự do trong một phần tư thế kỷ.

Quân Lực VNCH, từ phôi thai đến trưởng thành và lý do đã tạo nên cuộc chiến Quốc-Cộng Nam-Bắc có một không hai trong lịch sử nước ta.

QLVNCH và tiền thân là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam từ đâu mà ra?

Ngay khi Hồ chí Minh ra lệnh tổng tấn công các vị trí của Pháp ngày 19 Tháng Mười Hai năm 1946, khởi diễn chiến tranh Ðông Dương, thì trong năm 1947 đã có lính Việt Nam chiến đấu trong các đơn vị Pháp. Theo một báo cáo đề ngày 21 Tháng Mươì Một năm 1947, có một năm sau, thì đã có 18.990 người bản sứ trong quân đội viễn chinh.

- Ngày 1 Tháng Giêng năm 1948 thành lập đơn vị nhảy dù Việt Nam đầu tiên (1ère Compagnie Indochinois de Parachutistes).

- Ngày 1 Tháng Hai năm 1948, tiểu đoàn bộ binh Ðông Dương (Bataillon de Marche Indochinois) được thành lập ở ngoài Bắc, với 64 quân nhân Pháp làm cán bộ chỉ huy và 539 binh sĩ gốc Bắc Việt. Sĩ quan Việt Nam thời đó rất hiếm, xin kể Thiếu Úy ND Nguyễn Văn Vỹ, sau này là trung tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng của chính phủ miền Nam.

Khi chiến tranh chấm dứt năm 1954, số người Việt Nam trong quân đội Pháp đã lên tới 108.000 (53.000 chính quy và 55.000 phụ lực - supplétifs). Nếu chỉ tính 53.000 chính quy thì người Việt đã chiếm 1/4 quân số quân đội Pháp (200.000 người). Ða số sau này được thuyên chuyển sang Quân Ðội Quốc Gia.

Cũng trong năm 1954, Quân Ðội Quốc Gia có 150.000 chính quy và 50.000 phụ lực.

Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được hợp thức hóa ngày 11 Tháng Năm năm 1950 bởi một hòa ước ký giữa Quốc Trưởng Bảo Ðại và Tổng Thống Vincent Auriol. Cán bộ những đơn vị này hầu hết là người Pháp. Trường sĩ quan hiện dịch đầu tiên được khai mạc tại Huế ngày 1 Tháng Mười Hai năm 1948, khóa đầu tiên tốt nghiệp ngày 1 Tháng Sáu năm 1949.

Ở đời, lẽ dĩ nhiên, một quốc gia tự lực tự cường không phải nhờ đến ai vẫn là nhất. Nhưng khi thân phận bé nhỏ, phải chọn giữa một tà thuyết tàn bạo và sự liên kết nhất thời với một đồng minh ngoại quốc (trước là Pháp, sau là Mỹ) thì dân Việt Nam, nếu được quyền ăn nói, đã chọn giải pháp thứ hai. Bài học rút tỉa là dân quê ít học, đã dám dấn thân trước giới trung lưu, thượng lưu nơi thành thị. Họ đã tòng quân trước tiên, có thể vì đồng lương, vì hoàn cảnh an ninh, cơm gạo... nhưng chúng ta không thể phủ nhận họ đã chiến đấu và hy sinh để làn sóng đỏ không phủ lên nước Việt Nam trong suốt những năm 1947-1975.

Chiến tranh kéo dài từ năm nọ qua năm kia, đạo quân viễn chinh không giải quyết được chiến trường. Năm 1949, quân Trung Cộng của Mao trạch Ðông tiến tới sát biên giới Hoa-Việt, và tiếp tế huấn luyện bộ đội Việt Minh ngày càng lớn mạnh.

Tháng Mười năm 1950, trên quốc lộ 4, nối liền Lạng Sơn đến Cao Bằng, quân Pháp đụng với những sư đoàn chính quy mới thành lập của đối phương, đã thảm bại mất đi 8 tiểu đoàn cùng rất nhiều vũ khí trong vòng có 3 tuần. Tình thế thật là nguy kịch, và đồng bằng Bắc Việt bị đe dọa nặng nề.

Chính phủ Pháp vội chỉ định Ðại Tướng De Lattre sang Ðông Dương với chức vụ tổng tư lệnh và cao ủy, tức là kiêm nhiệm quyền hành quân sự và dân sự. Ông tới Hà Nội ngày 19 Tháng Mười Hai năm 1950, thủ đô lúc đó xôn xao, quân đội Việt Minh vừa thắng lớn ở quốc lộ 4 muốn thừa thắng xông lên, và Võ Nguyên Giáp cho rải truyền đơn là sẽ vào Hà Nội ăn Tết 1951. Với tài chỉ huy điêu luyện, Tướng De lattre chuyển thêm quân từ trong Nam ra bằng máy bay, và chặn đứng các sư đoàn Việt Minh ở Vĩnh Yên (13-17 Tháng Giêng, 1951) cách Hà Nội không tới 100km, bẻ gãy chiến dịch thứ hai của Giáp tại Ðông Triều (23-30 Tháng Ba, 1951), và sông Ðáy (Tháng Năm và Sáu, 1951). Bắc Việt được cứu thoát.

Tướng De lattre nhận thấy Pháp không thể thắng bằng quân sự ở Ðông Dương và phải trả lại mau chóng độc lập toàn vẹn cho Việt Nam. Như vậy, Việt Nam phải có quân đội mạnh, lúc đầu với sự trợ giúp của quân đội Pháp, mới đứng vững được. Chính ông đã là người “đỡ đầu” thành hình Quân Ðội Quốc Gia, bằng cách “Việt Nam hóa”, hồi đó gọi là jaunissement các đơn vị chủ lực của Pháp. Ðơn vị nào cũng phải có người Việt Nam với một tỷ lệ từ 30 đến 50%, những thành phần sẽ là nòng cốt của quân đội Việt Nam tương lai (tất cả những đơn vị nhảy dù hay lê dương đều được tổ chức theo kiểu này). Ông cho mở các trường huấn luyện quân sự, như trường Võ Bị Ðà Lạt năm 1951, sau này được mở rộng và hiện đại hóa, trình độ không kém các trường Saint Cyr hay West Point. Ðể làm gương, con trai duy nhất của ông là Trung Úy Bernard de Lattre chỉ huy một đơn vị thiết giáp gồm toàn binh sĩ Việt Nam, đã tử trận tại Ninh Bình ngày 28 Tháng Năm năm 1951.

Mặc dầu mang tang con, ông đã đến dự lễ phát phần thưởng cuối niên học 1950-1951 tại trường trung học Chasseloup Laubat ở Saigon: “...Các bạn hãy tỏ ra xứng đáng. Nếu các bạn thích cộng sản thì các bạn hãy sang hàng ngũ Việt Minh, có những người bên bọn chúng chiến đấu giỏi nhưng cho một lý tưởng sai lầm. Nhưng nếu các bạn là người quốc gia thì chiến tranh này là chiến tranh của các bạn...” Lúc này cũng là lúc chính phủ quốc gia ký lệnh động viên quân địch.

Tháng Năm năm 1954, quân đội viễn chinh đã thua ở Ðiện Biên Phủ, nhưng ít người biết là 50% quân trú phòng của căn cứ là người Việt, Thái, Nùng... 5.075 quân nhảy dù Pháp-Việt đã bỏ mình trong trận Ðiện Biên Phủ, 2.495 người Pháp và gốc Âu Châu, 2.580 người Việt, trong đó có 629 SQ, HSQ và BS của Tiểu Ðoàn 5 ND/VN. Còn ai nhớ đến 1.000 tù binh dân công (PIM hay Prisonniers Internés Militaires) người Việt có mặt ngay từ phút đầu, với quy chế tù binh chiến tranh, họ đã phụ giúp đào hầm hố cho căn cứ, sau này tải đạn tiếp tế lương thức nước uống cho các cứ điểm khi trận chiến trở nên ác liệt, các lính tác chiến bị cầm chân tại chỗ. Trong mấy tuần cuối, đôi khi họ phụ bắn súng máy hay súng cối khi người lính chính quy ngã gục. Ðào ngũ sang phía Việt Minh thì quá dễ, vì khi giao tranh đôi bên chỉ cách nhau có vài chục thước, nhưng tính ra chỉ khoảng 1% là trốn sang Bác với đảng. Ước tính hơn một nửa số PIM này đã thiệt mạng tại Ðiện Biên Phủ. Số còn lại, sau khi phải thu dọn chiến trường cho kẻ thắng, có lẻ đã bị thanh toán hay chết mòn trong các lao tù, vì sau này không còn tông tích gì của họ nữa.

Tính ra trong chiến tranh Ðông Dương (1947-1954), 400.000 người Việt Nam và một ít các sắc tộc khác như Thái, Nùng, Miên, Lào... đã chiến đấu chống cộng sản trong hàng ngũ quân đội Pháp hay các quân đội quốc gia tân lập. Bè lũ Việt Minh không thể nào vỗ ngực cho mình độc quyền ái quốc, chống “thực dân Pháp”, đánh cho “Mỹ cút Ngụy nhào”.

Hiệp định Genève cắt đôi đất nước đã khiến cho 1 triệu người ngoài Bắc bỏ lại tất cả để sống tự do trong Nam. Với bản tính gian ác lừa lọc, cộng sãn đâu có rút hết ra Bắc như đã ký kết, và những thành phần nằm vùng lại bắt đầu phá hoại cùng phát động chiến tranh du kích từ năm 1957, đưa đến chiến tranh Việt Nam trở nên ngày càng khốc liệt với sự tham dự của Mỹ và các nước Ðồng Minh.

Quả thật như chiến lược gia Clausewitz đã nhận định: “Chiến tranh xảy ra không phải do bên bị tấn công mà do bên đi xâm lăng, vì có tấn công mới có tự vệ, và như vậy mới có chiến tranh.”

Nói về Quân Ðội Miền Nam trên 1 triệu người và chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 20 năm phải mất nhiều thời giờ lắm. Tôi xin cố vắn tắt để chúng ta tạm nắm được vấn đề, và để có thời giờ cùng thảo luận.

Sau khi năm 1956, Quân Ðội Việt Nam dần dần thay đổi theo tổ chức quân đội Mỹ. Quân số gia tăng như tôi đã trình bày, đến năm 1970 lên tới 1 triệu, phân phối như sau (kê khai rất sơ khởi):
  1. Vùng 1 chiến thuật ngoài Trung: SÐ1BB đóng tại Huế, SÐ2BB đóng tại Quảng Ngãi, SÐ3BB đóng tại Ðà Nẵng, LÐ1 kỵ binh thiết giáp, 4 TÐ pháo binh và phòng không, 4 LÐ/BÐQ, 1 LÐCB/ chiến đấu, SÐ1KQ đóng tại Ðà Nẵng với 6 phi đoàn khu trục và 6 phi đoàn vận tải trực thăng, các đơn vị yểm trợ khác.

  2. Vùng 2 chiến thuật ở vùng Cao Nguyên: SÐ22BB tại Qui Nhơn, SÐ23BB tại Ban Mê Thuột, LÐ 2 kỵ binh thiết giáp, 6 TÐ pháo binh, 5 LÐ/BÐQ, SÐ2 không quân tại Nha Trang với 6 không đoàn chiến thuật cùng các trường phi hành, SÐ6 không quân tại Pleiku với 2 không đoàn 72 và 82, các đơn vị yểm trợ khác.

  3. Vùng 3 chiến thuật xung quanh Sài Gòn: SÐ5BB tại Bình Dương (Lai Khê), SÐ18BB tại Long Khánh, SÐ25BB tại Củ Chi (Hậu Nghĩa), LÐ 3 kỵ binh thiết giáp, 2 TÐ pháo binh, Liên Ðoàn Công Binh Chiến Ðấu, 3 LÐ/BÐQ, SÐ3KQ tại Biên Hòa* với 6 phi đoàn khu trục và 6 phi đoàn trực thăng, SÐ5KQ tại Sài Gòn với 1 phi đoàn trực thăng và 9 phi đoàn vận tải, các đơn vị yểm trợ khác...

  4. Vùng 4 chiến thuật tại Hậu Giang: SÐ7BB tại Mỹ Tho, SÐ9BB tại Sa Ðéc, SÐ21BB tại Bạc Liêu, LÐ 4 kỵ binh thiết giáp, LÐ40 công binh chiến đấu, SÐ4KQ tại Trà Nóc (Cần Thơ) với 2 không đoàn 74 và 84, các đơn vị yểm trợ khác.
Vào thời bấy giờ, Không Quân VNCH đứng vào hàng thứ tư trên thế giới với 2.075 phi cơ đủ loại và 61.147.

Hải Quân cũng phát triển rất lớn: đến năm 1975, HQ/VNCH có tới 1.600 chiếc tàu đủ loại, 40.000 quân được tổ chức thành 2 Bộ Tư Lệnh: Trần Hưng Ðạo Biển và Trần Hưng Ðạo Sông. Thêm các trường huấn luyện và Hải Quân Công Xưởng tại Sài Gòn.

Lực Lượng Tổng Trừ Bị: SÐ/ND, SÐ/TQLC, LÐ81/ Biệt Cách Dù, LLÐB.

Làm sao kể hết cả trăm cả ngàn trận mà Quân Ðội Miền Nam đã tham dự để chống lại quân thù miền Bắc. Quý vị còn nhớ Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, những trận để đời của quân cán chính miền Nam và sức chịu đựng phi thường của người lính VNCH.

Xin vắn tắt về Tết Mậu Thân. Các bạn sống ở ngoại quốc từ nhỏ, không thể nào hiểu và biết được cái không khí thiêng liêng của ngày Tết. Mặc dù chiến tranh, Tết đến là 2 bên hưu chiến 3 ngày. Tùy theo tình hình, đơn vị trưởng chúng tôi có quyền cho binh sĩ đi phép đến 50% quân số, có đơn vị còn phải nhắm mắt cho đi hơn nữa. Ðôi khi về quê, binh lính của ta gặp cả người phía bên kia về ăn Tết với gia đình, thôi thì đôi bên làm ngơ như không thấy nhau. Tết mà!

Nhưng... đến năm 1967, Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Hà Nội đã lấy quyết định khác. Vì cứ tiếp tục chiến tranh theo kiểu này, thì thế nào cũng sẽ thua trước hỏa lực và tiềm năng hùng hậu của Hoa Kỳ; kinh tế ngoài Bắc kiệt quệ, sự hao mòn về nhân lực, tài lực đã đến mức báo động. Thà đánh “xả láng” một keo bạc, may ra gỡ lại được ván cờ:

  1. Nếu thắng sẽ làm giảm ý chí của Mỹ, ông Nixon có thể thất cử vào cuối năm, Mỹ phải bắt buộc trở lại bàn hội nghị và rút khỏi miền Nam, Quân Ðội Miền Nam có thể tan rã vì đa số quân nhân đi phép, cửa bỏ ngỏ cho “nhân dân nổi dậy” theo “cách mạng” (người cộng sản tuyên truyền riết rồi tưởng tuyên truyền mình là đúng).

  2. Nếu thất bại, thì lực lượng “Giải phóng miền Nam” tức Cộng Sản Nam Kỳ sẽ lãnh đủ (sự thật đã xảy ra như tiên đoán) và ngoài Bắc sẽ hoàn toàn nắm quyền chỉ huy sau này.
Ðầu năm dương lịch 1968, Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao Việt Cộng, còn ngỏ ý muốn hòa đàm cốt ý đánh lạc hướng chú tâm của Hoa Kỳ. Ít lâu sau đó, Hồ chí Minh đọc 4 câu thơ chúc Tết trên đài phát thanh Hà Nội, hàm ý gởi mật lệnh tổng tấn công. Nguyên văn 4 câu thơ này như sau:

“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên, toàn thắng ắt về ta.”

Khi nghe, chẳng ai tin và cho rằng những lời thơ này chỉ có tính cách khích lệ và cổ vũ cho một chiến thắng mơ ước xa xăm. Nhưng sự thật đó là lệnh Tổng Công Kích Tết Mậu Thân.

Trong đêm 30 Tháng Giêng năm 1968, tức đêm mồng 1 Tết, 84.000 quân Việt Cộng và Bắc Việt tấn công 36 tỉnh trên 44, 5 đô thị lớn trên 6, tất cả các phi trường và trên 100 làng và quận lỵ. Lệnh cho quân cộng sản là phải chiếm đóng các khu đông người và bình dân để dễ tuyên truyền và dùng dân làm bia đỡ đạn khi phải giao tranh với Quân Ðội Cộng Hòa.

Trái với ước đoán của phia cộng sản, dân miền Nam không nổi dậy theo “cách mạng” mà lại tìm đủ mọi cách để chạy về vùng Quốc Gia. Quân ta, nhiều nơi chỉ còn 30% quân số đã chống trả mãnh liệt, địch không chiếm được một nơi nào trừ 3/4 thành phố Huế bị địch chiếm đóng 3 tuần và tàn sát cả bao ngàn dân như mọi người biết. Quân đội Mỹ thì chỉ chống trả khi bị tấn công, ngoại trừ thủ đô Sài Gòn được 5.000 quân của Tướng Weyand tiếp cứu ngay sáng mồng 2 Tết, và Huế được TQLC Mỹ tiếp tay với quân ta 1 tuần lễ sau khi cộng sản chiếm thành phố.

Số thương vong của cộng sản trong tháng đầu Mậu Thân (29/1 đến 29/2, 1968) là 45.000 chết được phân chia như sau: 18.600 quân chính quy, 9.000 quân lo tiếp vận, 12.400 du kích, 5.000 cán bộ hay chính trị viên. Ðến cuối Tháng Ba nam 1968, con số này lên tới 58.363 người. Ta bắt được 9.461 tù binh.

Cộng sản đã sát hại khoảng 7.000 thường dân trong thời gian chiếm Huế. Các mồ tập thể được khai quật từ sau khi ta chiếm lại Huế, từ ngày 24 Tháng Hai năm 1968 cho đến cuối năm 1969 đã cho phép kiếm lại được 5.000 thi thể. Ðến nay vẫn còn 2.000 người mất tích. Trên toàn quốc, 14.300 thường dân đã bỏ mạng trong trận này, 24.000 người đã bị thương, 72.000 người mất hết nhà cửa, 627.000 phải tị nạn.

Tổn thất quân đội ta đến cuối Tháng Ba năm 1968 là 4.954 hy sinh, 15.097 bị thương, 926 mất tích. (tại SÐND sĩ quan chết và bị thương nhiều hơn HSQ).

Tổn thất Ðồng Minh (Mỹ, Ðại Hàn, Úc): 4.124 hy sinh, 19.285 bị thương, 604 mất tích.

Thất bại nặng nề vừa chính trị vừa quân sự của cộng sản, nhưng đối với quốc tế và dư luận Mỹ, thì lại là một chiến thắng lớn. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này.

Nói đến Mậu Thân ngoài Trung, chúng ta không thể quên được Khe Sanh, căn cứ gần biên giới Lào-Việt mà tướng Giáp công hãm từ 20 Tháng Giêng năm 1968 để đánh lạc hướng tổng công kích sắp tới, và để cầm chân TQLC Mỹ tại đó. Hai sư đoàn Bắc Việt 304 và 325C cùng dân công tiếp vận, tổng cộng 45.000 người đã vây đánh Khe Sanh trong 77 ngày, từ 20 Tháng Giêng đến 5 Tháng Tư năm 1968, tức 22 ngày lâu hơn Ðiện Biên Phủ. Căn cứ do 6.000 binh sĩ thuộc SÐ3/ TQLC Mỹ phòng thủ cùng 600 binh sĩ Việt Nam thuộc TÐ.37/ BÐQ (TÐT Ðại Úy Hoàng Phổ) được không vận từ Phú Lộc đến Khe Sanh ngày 27 Tháng Giêng và trấn giữ phía Ðông căn cứ suốt trận đánh.

Dưới hỏa lực của quân trú phòng và yểm trợ phi pháo như thác lũ cửa KQ Mỹ, tướng Giáp, tưởng làm lại một Ðiện Biên Phủ thứ hai, đã phải rút 2 sư đoàn 304 và 325C gần như tan rã về Bắc. Hai đại đơn vị này kẹt ở Khe Sanh, không tiếp tay được cho mặt trận Huế. Báo chí Mỹ và ngoại quốc không hề đá động đến vai trò của TÐ/BÐQ Việt Nam. Tới đây, tôi thách đố bạn nào kiếm được cho tôi một bài báo ngoại quốc thời đó nói về đơn vị này tại Khe Sanh.

Với sự trợ giúp tận tình của Khối Cộng Sản Quốc Tế, coi thường mạng sống của dân Việt, đảng cộng sản ngoài Bắc lại chỉ thị cho tướng Giáp sửa soạn một cuộc tấn công quy mô khác vào năm 1972, với phương tiện hùng hậu pháo binh và thiết giáp (lần đầu thấy xuất hiện xe tank T.54 Nga Sô). Trận chiến kéo dài trong 3 Tháng Tư, Năm và Sáu 1972 mệnh danh Mùa Hè Ðỏ Lửa, đã tỏ cho thế giới sự can trường của người lính VNCH, khi họ được chỉ huy đàng hoàng và đúng mức.

Mở màn là trận mưa pháo trên chiến trường Quảng Trị, rồi đến Cao Nguyên, dọc vùng Duyên Hải, rồi đến vùng 3 chiến thuật tại Bình Long, phía Bắc Sài Gòn. Ðịch chiếm thị xã Lộc Ninh ngày 7 Tháng Tư 1972 gần biên giới Cao Miên, 20km về phía Nam là An Lộc, nằm trên quốc lộ 13 nối liền với Sài Gòn. Mất An Lộc là Sài Gòn bị đe dọa. Trong vùng, địch sử dụng 3 sư đoàn (công trường) 5, 7 và 9, SÐ pháo 75 trang bị thêm súng phòng không và 3 TÐ thiết giáp. Trận An Lộc kéo dài hơn 2 tháng từ 13 Tah1ng Tư năm 1972 đến 29 Tháng Sáu 1972 ngày mà An Lộc được giải tỏa bởi tiếp viện từ phía Sài Gòn lên... An Lộc dược Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân của ta chống giữ và lữ đoàn 1 nhảy dù cùng liên đoàn 81 biệt cách dù đến tăng cường sau.

Thị xã bị pháo của địch cày nát, nhưng địch không sao chiếm nổi mặc dầu nhiều đợt xung phong có thiết giáp yểm trợ. Bên ta được không quân Việt-Mỹ (B.52) yểm trợ tối đa, kể cả tiếp tế thả dù (3.686 tấn đạn dược, xăng nhớt, lương thực, thuốc men).

Quân số hai bên trong 2 tháng giao tranh là phe ta: 6.350, địch: 18.000.

Thương vong: phe ta, chết: 2.280, bị thương: 8,564, mất tích: 2.091. Ðịch: chết 6.464, tù binh: 56.

Ðể kết luận, chúng ta hãy so sánh trận đánh An Lộc với trận Ðiện Biên Phủ cách đây hơn 50 năm:

- Quân Liên Hiệp Pháp có gần 13.000 người ở Ðiện Biên Phủ, trong khi ở An Lộc quân trú phòng chỉ được 6.350 người, lúc đông nhất.

- Chu vi Ðiện Biên Phủ là 16km X 9km, tỉnh lỵ An Lộc chỉ dài rộng có 2km X 1km. Tại Ðiện Biên Phủ lúc khởi đầu trận đánh, có nơi pháo binh Bắc Việt không bắn tới, trong khi đó thì An Lộc lãnh pháo ngay ngày đầu.

- Tại Ðiện Biên Phủ, pháo binh Pháp có 28 khẩu 105 và 155 ly, 24 súng cối 120 ly. An Lộc chỉ còn 1 khẩu 105 sau ngày 13 Tháng Tư năm 1972.

- Pháp có 10 chiến xa ở điện Biên Phủ, tại An Lộc quân trú phòng không có chiến xa mà CSBV lại có 3 tiểu đoàn thiết giáp.

- Căn cứ Ðiện Biên Phủ bị 200.000 quả pháo, An Lộc lãnh 70.000 trái nhưng diện tích An Lộc chỉ độ 1/10 diện tích Ðiện Biên Phủ. Nếu tính theo tỷ số thì An Lộc bị pháo nhiều hơn Ðiện Biên Phủ!

- Những sự kiện này chứng minh là người lính VNCH, khi được chỉ huy đúng mức, can trường còn hơn người lính Bắc Việt. Không bị nhồi sọ, không có “chính trị viên” khủng bố tinh thần, họ biết giá trị thiêng liêng của chữ “Tự Do” và chấp nhận chiến đấu hy sinh cho gia đình và xứ sở.

Vậy ý nghĩa Ngày Quân Lực hôm nay là để chúng ta tưởng nhớ đến người lính VNCH, mà có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như vậy!

Học giả Phạm Kim vinh trong cuốn “Thiên Anh Hùng Ca” việt cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã tả những người lính chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn hai mươi năm, họ đi qua một con đường dài của lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa Vạn Lý Trường Chinh của Mao trạch Ðông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý, còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến thời Trung cổ.”

Vậy tại sao một quân đội hơn 1 triệu người, đầy kinh nghiệm chiến đấu, với 300.000 thương vong trong một chiến tranh kéo dài 25 năm, đã tan hàng trong có 55 ngày, làm cả thế giới và ngay đối phương phải ngỡ ngàng...?

Ai cũng biết câu nói bất hủ của Clausewitz: “Chiến tranh là sự nối tiếp của chính trị dưới hình thức khác” (La guerre est la continuation de la politique par d'autres moyens)”. Khi lâm chiến, nếu không thắng thì chỉ có thua, chứ không có giải pháp trung dung nào có thể thay thế chiến thắng (In war, there is no substitude for victory - Gen. Mc Arthur). Vì vấn đề sống còn và tại thân phận nhỏ bé, chúng ta đã rơi vào quỹ đạo của ‘ông đồng minh’ Hoa Kỳ. Vậy chủ đích của Hoa Kỳ ở Việt Nam có phải là chiến thắng không? Câu trả lời tất nhiên là KHÔNG!

Kinh nghiệm chiến trường từ xưa tới nay, bắt các nước lâm chiến phải theo vài quy luật, nếu không muốn thất bại hay bị hủy diệt. Xin trình với quý vị vài quy luật chính về chiến tranh mà tôi đã học được tại trường chỉ huy tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ, và cũng theo trường tham mưu đó, hầu hết các quy luật về chiến tranh đã không được tôn trọng trong chiến tranh Việt Nam:


1. Ấn định mục tiêu và kiên trì để đạt mục tiêu đó (La definition et la persistance du but à atteindre). Ðánh mà không muốn thắng thì đâu có phải là một mục tiêu để lâm chiến. Bằng cớ là bức thư Tổng Thống Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu hồi Tháng Năm năm 1972, ngay cả Mùa Hè Ðỏ Lửa: “...quý quốc và Hoa Kỳ có bao giờ muốn đánh bại Bắc Việt bằng quân sự đâu, chúng ta chỉ muốn chấm dứt cuộc chiến này bằng giải pháp điều đình...” Trong khi đó thì mục tiêu tối hậu của cộng sản Bắc Việt là muốn thôn tính miền Nam bằng mọi giá. Tại sao thái độ này? Hoa Kỳ sợ gây chiến với Tàu hay với Nga, hay có lý do thầm kín khác?

Cho nên quân sĩ miền Nam chỉ có chống đỡ, chúng ta không có quyền đánh ra Bắc, cho tới mấy năm cuối của chiến tranh, QLVNCH không có quyền truy kích quân cộng sản sang Cao Miên hay Lào; máy bay của chúng ta không đủ khả năng bay ra oanh tạc Hà Nội rồi trở về, những phi vụ này dành cho không lực Hoa Kỳ. Mà ngay phi công Hoa Kỳ cũng bị trói tay trên bầu trời Bắc Việt bởi những luật lệ quái gở, tóm tắt gọi là rules of engagement: một cái cầu hôm nay được oanh tạc, ngày mai không được nữa; một giàn hỏa tiễn SAM đang được hoàn thành cũng không được oanh kích, vì sợ bắn phải cố vấn Nga (?);máy bay MIG đậu dưới đất cũng không được phá trừ trường hợp máy bay này ở trên không và tỏ ra có ý định gây hấn (hostile intentions); cấm ngặt không được bắn phá đê điều... Lệnh ban ra từ Tòa Bạch Ốc! Tướng tá Mỹ than phiền là phải đánh nhau với một cánh tay bị “trói ra sau lưng”!


2. Thống nhất chỉ huy (Unité de commandement). QLVNCH và Hoa Kỳ đều có bộ chỉ huy riêng biệt và ngay trong QL Hoa Kỳ cũng có những tổ chức chỉ huy khác nhau: TQLC ngoài Trung thì thuộc CINC/PAC, hạm đội 7 tại Hawaii, không quân Mỹ thì dưới quyền không lực 13 (13th Air Force) bên Phi Luật Tân, lục quân thì thuộc quyền xài xể của Tướng Westmoreland USARV ở Sài Gòn. Như vậy thì làm sao phối hợp tình báo và điều hành để nhanh chóng đạt chiến thắng?


3. Dồn nỗ lực cho một mục tiêu chính trong một thời gian nhất định (Concentration des efforts) không được đúng mức cũng vì những lý do nêu trên: Lam Sơn 719, hành quân sang Cao Miên.


4. Dành được thế bất ngờ (Obtention de l'effet de suprise). Bất ngờ điển hình là địch đánh Tết Mậu Thân mà ta không biết. Kinh nghiệm bản thân còn nhiều ví dụ khác.


5. Thế chủ động (Initiative et offensive): Vì phải trải quân giữ địa thế, giữa an ninh cho đồng bào sinh sống, thường thường địch nó dành thế chủ động, rồi ta chống đỡ, cũng may là quân đội ta vững.


6. Ðơn giản và tiết kiệm trong hành động (La simplicité et l'économie). Quân đội Hoa Kỳ mang thử vũ khí trên chiến trường miền Nam, phương tiện khổng lồ, phung phí, nên quân đội ta cũng chịu ảnh hưởng “tính xấu” đó, rồi quen không biết đánh nhau theo kiểu “nhà nghèo” nữa.


7. Tinh thần và tuyên truyền (Moral et propagande). Chiến tranh kéo dài quá lâu, và sức chịu đựng của quân sĩ cũng bị ảnh hưởng, nhất là lương quân đội không đủ ăn, mà người lính thấp cổ bé miệng chịu thiệt thòi nhất. Từ đó xảy ra tệ đoan như tham nhũng...

Ðược tự do hơn ngoài Bắc, thường dân thờ ơ với cuộc chiến. Tác động tinh thần của ta ở ngoại quốc rất kém. Ai cũng phải công nhận là những sứ quán của ta phần đông là chỗ bồ bịch cho con ông cháu cha hay những kẻ “lạnh cẳng” trốn nghĩa vụ (đáng lẽ những người được phái đi nước ngoài phải là cán bộ đã có công với đất nước, ví dụ những quân nhân mang thương tích nặng...)

Trong khi đó thì phe cộng sản dồn hết nỗ lực vào mục tiêu này để nắm các sinh viên du học, và các báo chí nước ngoài (ví dụ Tết Mậu Thân). Ðược biết đài phát thanh Hà Nội bắt được ở Paris, trong khi dân chúng miền Bắc chết đói, còn đài Sài Gòn thì sao? Nhờ bộ máy tuyên truyền của thế giới cộng sản, chiến tranh Việt Nam đã trở nên một đề tài hoàn toàn bất lợi cho VNCH. Quân Bắc xâm lăng thì được coi là anh hùng, những vụ man rợ như giết chóc ám sát, các mồ tập thể ở Huế thì được báo chí quốc tế lướt qua. Còn VNCH thì bị sỉ vả không ngớt. Tệ hại là các phương tiện truyền thông của Mỹ cũng đều phụ họa theo đường hướng của cộng sản (Tết Mậu Thân, so sánh với Ðông Ðức-Tây Ðức). Bên Pháp thì chỉ có vài tờ báo của phe cực hữu ủng hộ miền Nam (báo Présent với hình ảnh SVSQ Ðà Lạt trên cầu xa lộ), ít phóng viên khác...

8. Tiêu diệt lực lượng địch (Anéantissement des forces de l'ennemi). Không đổ bộ ra Bắc thì 1 triệu quân Cộng Hòa, 500.000 quân Mỹ cùng các đồng minh khác cũng chẳng đạt được mục tiêu này khi chỉ giữ thế thủ ở miền Nam.

Trên mọi phương diện, ta hoàn toàn trông cậy vào Mỹ, và Mỹ đã cố ý gây ra tình trạng này để nắm quyền quyết định. Ngày nào Mỹ cúp viện trợ thì ta chết. Ví dụ ta không được làm xưởng chế đạn, không được lập ngân hàng quân đội, tiếp liệu quân y hoàn toàn của Mỹ, hàng hóa PX tràn ngập thị trường.

9. Sự kém cỏi của một số chỉ huy cao cấp Quân Ðội Cộng Hòa: Tiên trách kỷ, hậu trách nhân, chúng ta phải thẳng thắn và can đảm nhìn nhận những yếu kém của chúng ta. Tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng chúng ta đã có một số người chỉ huy bất xứng, quân đội hồi đó chưa đủ cán bộ có tài để nắm tất cả những chức vũ then chốt, hoặc người có khả năng không đủ “cổ cánh” bị gạt sang bên “ngồi chơi xơi nước”, có người chiến đấu giỏi thì không được đi học thêm (tư lệnh sư đoàn đôi khi chỉ có kiến thức tiểu đoàn trưởng hay kém hơn), cho phép gia đình lợi dụng hoàn cảnh để làm bậy. Rút lui miền Trung và miền Cao Nguyên là một thí dụ điển hình về sự bất tài điều quân, từ người ra lệnh cho đến người thi hành: di tản miền Cao Nguyên qua quốc lộ 7 là phạm tất cả những lỗi lầm trong một hành quân triệt thoái...

Nếu cấp lãnh đạo và tướng tá của ta giỏi và yêu nước, thì có lẽ thế sự đã đổi khác, hoặc nếu phải chết vì hết tiền viện trợ thì còn lâu mới chết, và cũng chết vinh chứ không chết nhục như hồi Tháng Tư năm 1975. Có một giả thuyết khác: hay là có sự sắp đặt trước rồi? Chả nhẽ cấp chỉ huy miền Nam lại ngu đến thế. Dọn nhà ra riêng còn mất vài ngày, ngỡ đây lại dọn một quân đoàn trong có 2-3 ngày mà không được chuẩn bị gì hết? Xe tank cộng sản chạy “phoong phoong” từ ngoài Bắc vào Sài Gòn, mà không có một cây cầu nào bị giựt sập...!!

Câu nói của Kissinger: “Sao chúng không chết phứt đi cho rồi...!” khi tại vài nơi binh sĩ của ta còn tuyệt vọng cầm cự, nó vẫn còn văng vẳng nơi tai!

10. Nước Mỹ đã khai tử miền Nam bằng cách đi đêm với cộng sản, và cắt dần viện trợ từ 2 tỷ xuống còn 500 triệu cho tài khóa 1975 trong lúc nước ta đang chiến đấu để sống còn. Không kể những vụ hạ nhục chính quyền ta và bôi xấu QLVNCH. (Ðến Tháng Hai năm 1975, còn có một phái đoàn dân biểu Mỹ sang “thanh tra” Việt Nam, để kiếm thêm lý do cúp viện trợ. Họ đòi đi xem trại tù Côn Ðảo - hầm cọp để nhốt tù nhân chính trị - gặp thành phần tôn giáo chống đối - mà sau này chúng ta đều biết là thân Cộng hoặc bị cộng sản giật dây. Mac Closky đòi cúp hết viện trợ, Bella Abzug, Fenwich có thái độ lạnh nhạt và rất hỗn. Ðến nỗi Tổng Thống Thiệu đã phải thốt ra trong bữa tiệc khoản đãi phái đoàn này (tiệc cuối cùng tại Dinh Ðộc Lập của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa): “...quà tặng đã quan trọng, nhưng cách tặng quà còn quan trọng hơn nhiều...”

Rút cuộc, lý do chính của sự sụp đổ miền Nam là Mỹ không còn quyền lợi nào ở đó nữa. Ðơn giản là như vậy. Tôi còn nhớ câu buộc tội hồi năm 1975 của Triết gia Raymond Aron: “L'Amérique a commis le crime de non assistance à une nation alliée en danger de mort.” (Nước Mỹ đã phạm tội bỏ rơi một nước đồng minh trong cơn hấp hối.)

Chúng ta hãy chờ xem thế sự ở Trung Ðông hiện nay xoay dần ra sao, Mỹ sống còn với Israel vì nước này là tiền đồn giữ dầu hỏa ở Trung Ðông cho Mỹ...

Y Sĩ Ðại Tá Hoàng Cơ Lân
(Trích từ báo Người Việt)
Vài dòng tiểu sử của Y Sĩ Ðại Tá Hoàng Cơ Lân:

- Sinh năm 1932 tại Hà Nội.
- Trung học Albert Sarraut Hanoi và Yersin Dalat (1937-1950).
- Tốt nghiệp y khoa Ðại Học Saigon 1957.
- Sư đoàn nhảy dù từ năm 1957 đến 1970 (Y Sĩ Trung Úy đến Y Sĩ Trung Tá).
- Phụ tá Quân Y Lục Quân từ 1968 (kiêm nhiệm) đến 1971.
- Học chỉ huy tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas (1971-1972): Ðại Tá.
- Chỉ huy trưởng trường Quân Y (1972-1975).

Hồn Ai Trong Gió

(Viếng Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa)

"Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngủ
Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào!! "



Kẻ tha hương không đủ thì giờ và tâm trí trong ngày trở về để đi suốt chiều dài đất nước như ước vọng cuối đời , tìm về nơi chôn nhau cắt rốn , nhìn lại ngôi trường xưa với những giấc mộng vàng thời niên thiếu , ghé thăm núi Ngự quấn khăn tang hay nhìn dòng Hương khóc sướt mướt của những ngày chiến chinh máu lửa . Nỗi tự tình về quê hương đành nén lại trong lòng , bởi ngổn ngang bao điều thúc bách . Ô hay , đau thương từ quá khứ như còn đâu đây , thoảng trên con hẻm về khuya khua đôi nạng gỗ bên túp lều không đủ che nắng trú mưa. Và hơn hết mọi nẻo đường đất nước , một mảnh đất không xa phố thị bao nhiêu , nhưng xa hẳn thế giới đua chen , cần được những bước chân ghé thăm và những nén nhang lòng thắp lên .


Sau hơn một giờ , chiếc taxi mới thoát ra khỏi Sài Gòn . Xe đi vào xa lộ Biên Hòa , bỏ lại sau lưng một thành phố đầy khói và bụi . Hầu như mọi con đường đều chật ních xe hai bánh . Dòng xe cộ trên xa lộ vẫn thi nhau lao đi , như thể bị thúc đẩy bởi một lực vô hình phía sau . Nhà cửa ngoại ô cùng chung số phận với phố xá Sài Gòn , đua nhau mọc lên , phô trương hình dáng , khoe khoang mặt tiền tựa cô gái quê thích trang điểm , tạo nên một cảnh trí mất cân đối giữa những căn nhà lụp xụp và quán xá lấn chiếm bất cứ khoảng trống nào . Dân cư chia nhau những không gian nhỏ để tồn tại , còn lại những tòa nhà bề thế hay những căn nhà sang trọng nửa lộ diện nửa kín đáo , nhắc nhở sự xuất hiện của những chủ nhân mới . Không thể nhận ra con đường dẫn vào nghĩa trang, tôi bảo anh tài xế trẻ tắp vào một quán nước . Bà chủ quán đứng tuổi chăm chú nhìn tôi:

- Ông hỏi nghĩa trang thành phố thì bên kia đường , còn nghĩa trang quân đội cũ thì đi tới ngã ba đằng kia .

Trước đây mỗi lần đi ngang khu vực nầy , tôi thường lái xe chậm lại để dán mắt vào kiến trúc quy mô và nghệ thuật của nghĩa trang , và khi nhìn tác phẩm Thương Tiếc , lúc nào tôi cũng thấy bức tượng người lính sống động . Người lính ngồi lặng lẽ bên đường như một nhân chứng âm thầm của cuộc chiến . Trong tư thế nuối tiếc đồng đội , anh như còn muốn nhắc nhở khách đi đường về một thế giới thầm lặng khuất sau ngọn đồi . Nhưng nay tác phẩm đầy huyền thoại đã biến mất không một dấu tích để lại . Tôi nghe nói , người cộng sản đã đổ hận thù lên cả người lính bằng đồng , một tác phẩm điêu khắc hiếm có , bằng cách đập phá bệ tượng , giật sập và kéo lê bức tượng qua nhiều nơi .

Toàn cảnh đã đổi thay . Con đường dẫn vào nghĩa trang bị che khuất bởi hai dãy nhà mới cất , chỉ còn vài cây bạch đàn không biết sống sót từ ngày cũ hay ai đã trồng lên sau này . Khi chiếc xe chầm chậm đi vào con đường nhựa và bắt đầu lên dốc , thì khung cảnh quen thuộc bất ngờ hiện ra trước mắt tôi : Cổng Tam Quan và Đền Tử Sĩ.


Tôi nói với tài xế chạy thật chậm để thích thú thu vào ống kính con đường uy nghi thẳng tắp dẫn lên ngôi đền . Từ Cổng Tam Quan , hai con đường hai bên ôm lấy ngọn đồi theo mô hình con ong mà ngày xưa nhà thiết kế đã chọn lựa. Con ong không thờ hai chúa , người lính chỉ chết cho một ngọn cờ. Hai hàng chữ hai bên cổng đã tróc sơn , nhìn thật rõ mới đọc được : Vì Nước Hy Sinh – Vì Dân Chiến Đấu . Tôi bước lên từng bậc thang phủ đầy rêu phong mà tưởng như đi giữa những cặp mắt thật xa xưa mà rất gần gũi ở quanh đây đang nhìn tôi . Tôi đang gặp lại những đồng đội của mình . Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa – Nghĩa Trang Của Những Người Lính Đã Chết Cho Quê Hương Việt Nam .


Tôi sắp bước lên những bậc thang cuối cùng để đặt chân vào Đền Tử Sĩ , ngự trên đỉnh đồi , ngày nào là nơi tôn nghiêm vị nguyên thủ quốc gia thường đến hành lễ trong các dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong , Lễ Vu Lan , ngày Quân Lực , ngày Quốc Khánh .

Tôi ngẩn ngơ trước cảnh trời đất êm ả của buổi chiều lộng gió , chưa kịp đưa máy quay lên , bỗng từ trong một góc đền hai con chó nhảy ra sủa vang . Hai con chó đã báo động . Năm bảy người bật dậy khỏi nền nhà . Họ đứng hàng ngang trước mặt tôi , nhìn vào máy ảnh và máy quay phim lỉnh kỉnh trên vai tôi . Tôi nói với họ tôi từ xa đến , muốn thăm lại ngôi mộ người bạn ở nghĩa trang nầy nhưng không thể tìm ra vị trí và mong họ giúp đỡ . Toán lính cho biết toàn khu vực nghĩa trang do bộ đội quản lý , không cho phép người ngoài vào , không được chụp hình quay phim . Khu vực nầy không có mồ mả . Tôi cứ hỏi tới , làm thế nào tìm được ngôi mộ người bạn để cắm vài nén nhang . Thấy tôi tha thiết, một anh lính nói giọng Nam chỉ phần đất phía sau ngọn đồi .

- Chú vào đó , cứ hỏi khu vực mồ mả là người ta chỉ cho .

- Cám ơn cháu nhiều lắm.

Tôi chào toán lính , rồi bước nhanh xuống những bậc thang , e ngại họ có thể đổi ý tịch thu máy ảnh và máy quay phim . Tôi đến đây không có những thông tin chính xác về hiện tình nghĩa trang , ngoài những nguồn tin ít ỏi từ bạn bè . Tuy vậy toán lính đâu biết rằng tôi đã quay xong khung cảnh mặt tiền nghĩa trang , chỉ còn cảnh mấy người lính ăn mặc lếch thếch nằm ngủ la liệt trên nền xi măng là tôi chưa thu được vào ống kính .

Từ trên cao nhìn bao quát cảnh trí chung quanh ngọn đồi , tôi hiểu tại sao người cộng sản muốn xóa tan một di tích lịch sử đã in đậm dấu ấn trong lòng mọi người . Ở hải ngoại , người Việt hay tin chính quyền cộng sản sẽ giao nghĩa trang cho một công ty ngoại quốc để khai thác du lịch . Cho đến nay , chẳng hiểu vì sao họ chưa cày nát nghĩa trang như đã làm ớ các nơi khác . Chung quanh Đài Liệt Sĩ , người ta trồng bạch đàn , nhưng rừng bạch đàn không lớn nổi , sống thoi thóp giữa lớp cỏ ngập cả sườn đồi . Con đường đất nhựa chấm dứt khi chiếc xe rẻ bên trái , chuyển qua đường đất bụi lồi lõm dường như từ lâu không được sửa chữa . Bên phải là bức tường mỏng dang dở bám đầy bụi ngăn cách nghĩa trang với bên ngoài . Những xưởng làm gạch ngói kéo dài mấy trăm thước , vào lúc nầy không thấy cảnh hoạt động tấp nập . Chiếc xe lướt qua một bức tượng Phật Bà bên phải . Thấy một quán nhỏ bên đường , tôi ngừng lại hỏi . Tôi gặp ngay anh trưởng toán bảo vệ nghĩa trang . Anh ta hỏi tôi tên họ thân nhân , mất năm nào để dễ tìm kiếm . Tôi muốn nói , tôi đến đây không phải để thăm một người , mà thăm toàn nghĩa trang . Nhưng tôi đã có một tên người chết bịa ra lúc ngồi trên xe .

- Anh ấy tên Nguyễn Quốc Việt , chết khoảng năm 70 hay 71 gì đó .

- Nếu vậy , chú sẽ rất khó tìm . Ở đây chúng tôi quản lý trên mười ngàn ngôi mộ , người ta tìm mộ theo lô năm chết .

- Tôi hy vọng nhớ địa điểm , vì trước đây tôi có đến một lần . Anh ráng giúp tôi , người chết sẽ nhớ anh, người sống sẽ không quên ơn anh .

Anh chần chừ một lát rồi nói :

- Chú chờ cháu lấy xe gắn máy . Ở đây quy định xe hơi không được vào.

Tôi gặp may , nhưng không dám lộ niềm vui ra mặt . Tôi để gia đình ngồi tại quán nước, lén nhét máy ảnh vào túi jacket . Khi chiếc xe gắn máy chạy vào trung tâm nghĩa trang , tôi bảo anh dừng lại . Khuất sau những dãy nhà cửa và xưởng gạch ngoài kia , nghĩa trang như một thế giới lạc lõng nằm trong quên lãng . Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa , sẽ trở thành Nghĩa Trang Quốc Gia như kế hoạch của chính phủ trước đây , vẫn còn đó nhưng khắp nơi đều một cảnh làm se thắt lòng người viễn xứ . Rừng bia mộ mênh mông nằm xen lẫn với cỏ cây um tùm , phân chia từng lô bởi những con đường đất . Nghĩa trang quá rộng lớn , tầm nhìn của tôi không thể thu hết toàn cảnh . Dân cư và các lò gạch đã lấn chiếm sát vòng đai nghĩa

trang . Rải rác đó đây là những ụ đất , những hố sâu , những cây cao su mới trồng lẫn trong những đám cỏ đuôi chồn mọc cao. Một số ngôi mộ đã được dọn sạch sẽ , còn lại là những mồ hoang ngập trong cỏ dại không nhang không khói , có lẽ ba mươi năm nay , chưa một ai đến viếng . Đã có những con người từ tâm đến đây sửa sang , nhưng vẫn chưa làm nghĩa trang bớt hoang phế . Tôi có cảm tưởng nghĩa trang đã bị lấy đi một lớp đất , để lộ những tấm đan trồi cao trên mặt đất . Có vẻ như người ta sắp làm một cái gì trên mảnh đất nầy . Hầu hết những ống cống trên đường bị lấy đi không được lấp đất lại , tựa như dấu đùn của thú rừng ăn đêm . Nhiều tấm bia bị đập bể . Có những phần mộ bị dời khỏi vị trí . Một sự phá hoại quy mô đầy tính thù hận . Đột nhiên , đôi mắt tôi rưng rưng niềm phẫn uất .

Người cộng sản đang tìm mọi cách chiêu dụ người Việt hải ngoại về xây dựng đất nước , mời mọc đầu tư , cổ xúy hòa giải , vậy mà họ đang tiếp tục gieo rắc hận thù trên cả những kẻ đã nằm xuống . Người chết đã không được yên ổn dưới lòng đất . Nghĩa tử là nghĩa tận . Mồ mả các chiến binh cộng sản khắp nơi được sơn phết cẩn thận , mồ mả nơi đây bị dày xéo thật tàn nhẫn . Người cán binh cộng sản , người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa , họ là ai ? Tất thảy họ là những người con dân Việt bất hạnh , là nạn nhân của một chủ thuyết điên cuồng , phải được chia sẻ từng mảnh đất chôn cất , chia sẻ từng nén nhang và cả lời nguyện cầu được bình an dưới lòng đất hay thanh thản nơi một thế giới nào đó không binh đao và oán thù .

Làm thế nào tìm ra lô đất chôn theo năm , nói gì tìm ra tên người thân khi lạc vào đây ? Tôi đến gần anh bảo vệ và dúi vào tay anh một số tiền :

- Anh nói đúng, có lẻ tôi cần phải đến đây ba bốn ngày liên tiếp mới mong tìm được mộ người bạn tôi . Rất tiếc , chỉ còn vài ngày nữa là tôi rời khỏi nơi nầy . Vậy anh cho tôi thắp hết bó nhang cho những ngôi mộ trong khu vực nầy . Đó là cách tôi gởi lòng thành của mình cho người bạn và luôn thể đến những người khuất mặt ở đây .

- Vâng ... chú làm thế cũng được .

- Cám ơn anh đã giúp tôi tận tình . Có lẽ không bao giờ tôi có dịp đến nghĩa trang lần nữa . Mong anh cho tôi chụp vài tấm hình kỷ niệm .

- Chú đã biết rồi đó . Họ cấm chụp hình . Nhưng cháu sẽ canh chừng cho chú .

Trước khi đưa máy hình cho anh bảo vệ , tôi chụp ngay vài tấm toàn cảnh nghĩa trang , nằm dưới ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài với Vành Khăn Tang quấn quanh xa xa . Tôi nghe anh nói , công trình ngôi tháp xây gần xong thì miền Nam mất . Tọa lạc trên một ngọn đồi , thêm mấy cần thu lôi làm tăng thêm chiều cao nổi bật trên rừng mộ bia , ngôi tháp dũng mãnh cao trên bốn mươi thước như thách thức thời gian , như đang chứng tỏ với con người sự hiện hữu của một thế giới vô hình . Kiến trúc uy nghi nầy làm tôi liên tưởng đến bao nhiêu người đã bỏ tim óc và sức lực vào việc xây dựng công trình lịch sử lớn lao nầy, để hơn ba mươi năm trôi qua, ngôi tháp vẫn còn đứng vững và tiềm tàng uy lực khó hiểu, đã làm chùng lại mọi mưu toan xóa bỏ nghĩa trang. Thấp thoáng vài bóng người trong khuôn viên ngôi tháp. Tôi ao ước được vào bên trong để nhìn công trình dang dở với thanh kiếm khổng lồ cắm xuống mặt đất và vành khăn tang rộng lớn quấn quanh ngôi tháp, nhưng không nghĩ ra cách nào, vì anh bảo vệ lắc đầu từ chối.

Trong cơn gió vi vu xô dạt hàng cây bạch đàn, tôi đến từng ngôi mộ, cắm từng nén nhang vào những tấm đan xiêu vẹo, đối diện với từng hình ảnh, tên họ, đơn vị, ngày sinh, ngày mất. Dù không còn ngay ngắn vị trí, những tấm đan vẫn còn nguyên vẹn. Anh bảo vệ có vẻ quen thuộc với máy chụp hình, bấm máy kịp thời mỗi lần tôi di chuyển qua từng ngôi mộ. Hình như anh đã thông cảm việc làm của tôi nên sau đó sẵn sàng dẫn tôi đi qua các khu vực khác. Anh cho biết, có những gia đình đã đến đưa tiền nhờ bảo vệ dọn dẹp phần mộ thân nhân của họ. Hàng năm có một số thương phế binh và cựu quân nhân sống ở các khu vực lân cận thường đến đây vào dịp Tết để tảo mộ. Còn lại những ngôi mộ khác không ai chăm sóc, ẩn sâu dưới lớp cỏ rậm, bia mộ như cố vươn lên nhắn gởi một lời ghé thăm.

Bó nhang trong tay đã hết sạch. Anh bảo vệ cho biết các khu vực khác cũng tình trạng tương tự, nghĩa là có những ngôi mộ đã được chăm sóc xen lẫn với những ngôi mộ ngập cỏ. Tôi muốn đi xa hơn, nhưng anh ta bảo, không nên đến gần toán bộ đội đóng rải rác quanh nghĩa trang. Đành nhủ với lòng mình, dù sao tôi đã thăm lại được nghĩa trang, một việc hằng ấp ủ trước đây. Tôi lại ngồi sau chiếc xe gắn máy lao đi trên những đoạn đường bụi đỏ, chạy quanh một vòng qua các con đường bị đào xới, để ngậm ngùi thấy mọi nơi của nghĩa trang đều hoang tàn giống nhau.

Ra khỏi bức tường thành hoen ố, tôi trở lại quán nước. Tôi chưa kịp nói chuyện với gia đình về những bức ảnh vừa chụp được, thì anh tài xế nói nhỏ bên tai nên cho thêm tiền người bảo vệ để được quay phim. Tôi kéo anh bảo vệ ngồi riêng một bàn. Tôi đưa cho anh thêm một số tiền Việt và ngỏ ý muốn trở lại quay vài đoạn phim. Anh ta không phản đối nhưng khuyến cáo không nên đi quá xa khu vực ấn định. Uống chưa xong ly nước, chúng tôi trở lại nghĩa trang.

Chiều xuống, nghĩa trang không một bóng người, chỉ nghe tiếng chim kêu áo não trên một cành cây gần đó và tiếng đa đa khàn khàn từ những lùm cây trên sườn đồi khiến cảnh chiều thêm quạnh hiu. Xa xa, một làn khói xám xịt lên cao từ một lò gạch, uốn éo theo chiều gió, ngập ngừng không biết tan về đâu. Những bia mộ như hớn hở đi vào ống kính, cả cỏ dại cũng lắc lư nhảy múa hưởng ứng công việc của tôi. Tôi cẩn thận thu cận cảnh vài tấm bia. Khi quay ống kính về phía ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài sừng sững trước mặt, tôi thực sự xúc động, cảm thấy mọi thứ trong nghĩa trang đều sống động như đang đồng cảm với tôi về cuộc viếng thăm bất ngờ nầy. Nhìn rõ những hình ảnh trên màn hình, tôi bỗng rùng mình. Nghĩa trang đang thở từ lòng đất. Từng tấm bia lướt qua trong máy đang gởi lời chào thân ái. Tôi tin những cặp mắt vô hình đang đồng loạt nhìn tôi. Phải chăng đây là khoảnh khắc giao cảm hiếm có với những người lính vô danh ngày xưa đã hy sinh mạng sống của mình, ngày nay họ đã trở thành những vị anh hùng trong lòng dân tộc.

Đâu đây như có tiếng chân đều nhịp của những tháng ngày thao trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu. Chúng ta đang sống lại trong hàng ngũ ? Những ngày xưa thân ái , anh đã gởi lại nơi đây. Anh về qua xóm nhỏ , tình quê hương đậm đà. Anh về thủ đô , lòng em rộn rã . Những địa danh bỗng hiện ra, những trận đánh như còn sôi động đâu đây. Máu ai nhuộm thấm ngọn đồi chiến lược? Bàn tay nào giương cao lá cờ tung bay trên cổ thành Quảng Trị ? Anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ mảnh đất miền Nam . Thế rồi anh ngã xuống, thế rồi tôi buông súng. Anh cô đơn nơi hoang địa, tôi lầm lũi cảnh tha hương.

Bao nhiêu năm chiến tranh, chỉ có một ngày đáng nhớ. Chỉ có một ngày đáng nhớ, nhưng không thể viết hết thành lời. Không thể viết hết thành lời, bởi vì thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi.

Người nằm đó không buồn lên tiếng. Những kẻ bạc mệnh đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quý giá. Một thế giới câm lặng nhưng lại cho ta bao điều suy nghĩ về sinh ký tử quy của con người, về tình tự dân tộc muôn thuở của quê hương. Thế mà con người lại điên cuồng sáng chế ra những chủ thuyết để sát hại ngay chính đồng bào mình. Thế giới vô sản được hô hào đoàn kết lại để chết cho một số người. Sự dối trá và tàn ác được vinh danh như một tiêu chuẩn của đạo đức. Ôi quê hương, ta không dám hồi tưởng lại quá khứ, e không còn nước mắt để khóc cho những đau thương của dân tộc. Ta không dám mơ một ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày hôm nay đen tối.

Kẻ nơi âm cảnh , người còn dương thế, không còn khoác chiến y, nhưng nỗi lòng về đất nước vẫn còn trong mạch sống. Mạch sống vẫn còn tuôn chảy, dù những năm tháng cuối đời có thể đếm được rồi, bởi mạch sống vẫn trung thành với quá khứ, phải lan rộng ra như một dòng nước thủy chung cho thế hệ mai ngày. Lịch sử đang phơi bày trước mắt, không cầu kỳ hay bóp méo, như dấu tích đập phá trên bia mộ cùng khắp nghĩa trang, như ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài hùng vĩ đứng giữa trời kia, như ngôi Đền Tử Sĩ chứng nhân trên đồi cao, như bầu trời lồng lộng, như cỏ cây đang lay động theo nhịp thở của anh từ lòng đất.

Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngủ, nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào.

Đột nhiên, trời tối sầm lại. Giờ của hoàng hôn đã vãn. Mặt trời đã thu về những ánh tà dương lộng lẫy, để lại một vùng ánh sáng yếu ớt sau ngọn đồi. Tiếng sấm xa xa dội lại vu vơ. Những đám mây đen ùn ùn kéo tới. Mặt trời thực sự biến mất. Nhưng dấu hiệu báo cơn mưa chỉ diễn ra trong chốc lát, có lẻ mưa một nơi nào đó. Trời mây trở lại yên tĩnh, trống trải và hoang vu. Những con chim én như những nốt nhạc lẻ loi trên mấy hàng dây điện, bỗng vụt bay lên không. Chúng chao lượn vài vòng rồi rủ nhau bay về bên kia nghĩa trang, lúc nầy trông như bức tường thành ngăn cách hai thế giới. Một cõi âm đấy bí ẩn và một cõi trần u uất sắp vùi vào bóng tối của đêm đen .

Tôi rời khỏi nghĩa trang, thoảng như vừa trải qua một giấc mơ …

Ngôi Đền Tử Sĩ, ngọn tháp Nghĩa Dũng Đài, Vành Khăn Tang, rừng bia mộ, những con đường đất đỏ còn đó. Nghĩa trang vẫn còn đó, dù trong hoang tàn. Những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống, nhưng mãi mãi vẫn sống trong tim những người Việt Nam hằng yêu thương đất nước và giống nòi.

Hoa Thịnh Đốn, đầu năm Giáp Thân 2004
Chu Lynh

Tuesday, June 5, 2007

Ngày Tết nhớ về Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

Trần Trọng Nghĩa
(VNN)

Theo tục lệ của dân tộc ta thì hàng năm có ngày lễ Thanh Minh vào đầu tháng Ba âm lịch. Đây là ngày đặc biệt để các gia đình đi tảo mộ ông bà, cha mẹ và người thân trong gia đình. Dịp này, người ta tới mộ phần người thân để khai quang, nhổ cỏ, đắp đất, quét dọn, thắp hương, cúng vái. Nhưng, thực ra, không phải chỉ vào dịp Thanh Minh trong tiết tháng Ba, người Việt Nam mới đi tảo mộ. Trước Tết Nguyên Đán, hàng năm cũng có tập tục đi viếng và quét dọn mồ mả tiền nhân trước khi trang hoàng nhà cửa đón Tết. Gia đình Việt Nam không chỉ bao gồm những thế hệ còn sống, mà còn bao gồm cả những thế hệ đã khuất. Nếu hiểu chữ "NGHĨA" là sợi dây gắn liền con người với nhau thì sợi dây vô hình này nó cột chặt hai cõi âm dương.

Nhưng vì hoàn cảnh đất nước ta sau nhiều năm nội chiến, nhiều người Việt Nam đã không thể làm cái việc thể hiện tấm lòng mình đối với người đã khuất là đến tảo mộ người thân trong những ngày giáp Tết. Còn nhớ, ngay sau khi thôn tính Miền Nam, cộng sản đã bắt di dời mồ mả của thường dân và của quân đội VNCH. Mộ phần của những gia đình không có mặt đã bị họ đào sới, san bằng. Cứ tưởng "nghĩa tử là nghĩa tận", mồ mả là nơi an nghỉ cuối cùng và vĩnh viễn sẽ không bị ai xúc phạm. Hành động này của bạo quyền cộng sản là một hành động tồi bại, mất tính người, phản luân thường đạo lý, phản truyền thống dân tộc. Theo báo điện tử VietNamNet thì vào thời điểm năm 1980 là năm CSVN quyết định di dời các nghĩa trang trong vùng Sài Gòn, có đến hàng trăm ngàn ngôi mộ chôn ở các nghĩa trang chính như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, rộng 7,5 hecta ngay trung tâm Sài Gòn; nghĩa trang Đô Thành, còn gọi là nghĩa trang Chí Hòa, trên đường Lê Văn Duyệt, rộng 25 hecta; nghĩa trang quân đội Gò Vấp; nghĩa trang Bình Thới, rộng 30 hecta; nghĩa trang Phú Thọ khoảng 40 hecta; và nghĩa trang quân đội Pháp ở gần ngã tư Bẩy Hiền. Tất cả những nghĩa trang này với hàng trăm ngàn ngôi mộ đã bị đào sới, di dời và san bằng, không còn vết tích gì là nghĩa trang nữa. Nhưng khu nghĩa trang mà không ai là không nhớ tới là Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.

Trong chiến tranh, quân cộng sản thường lợi dụng các nghĩa trang là nơi thiêng liêng mà người quốc gia tôn trọng như cấm địa để làm nơi chôn giấu vũ khí và ẩn náu của cán bộ. Khi chiếm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, quân đội cộng sản lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử, nghĩ rằng quân lực VNCH cũng có những kho tàng bí mật tại đây để đánh lại họ. Vì thế họ đã phòng thủ cẩn mật không cho ai ra vào. Họ làm như hơn 10 ngàn tử sĩ an táng nơi đây có thể sống dậy phản công lại họ. Vì thế, những nơi nào đáng nghi ngờ, họ đã đào sới, cày ủi. Các phần còn lại họ bỏ mặc cho hoang tàn đổ nát. Những hình ảnh và bài viết về cảnh hoang phế này đã được nhiều người ghi lại từ 32 năm qua, trong đó có cả ký giả ngoại quốc như ông Brennon Jones của báo International Herald Tribune.

Gần đây, ngày 27/11/2006, Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng chính phủ CSVN đã âm thầm ra quyết định số 1568/QĐ-TTg giao khu nghĩa trang này cho tỉnh Bình Dương. Điều 1 của quyết định này viết: "Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương". Tuy rằng ở mục 2, điều 2 có nói là tỉnh Bình Dương chỉ đạo quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác, nhưng điều 1 nói rõ là chuyển giao 58 hecta đất của khu nghĩa trang để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Cũng nên biết là trước năm 1975 tại đây an táng hơn 16.000 tử sĩ VNCH. Sau 1975, một số gia đình lo sợ CSVN sẽ tàn phá nghĩa trang nên có khoảng 8.000 ngôi mộ đã được thân nhân cải táng đi chỗ khác. Với điều khoản này, không ai cấm tỉnh Bình Dương sẽ gom trên dưới 8000 ngôi mộ còn lại này lại một góc hoặc di dời đi một chỗ khác, để lấy đất làm sân golf hay xây cất hãng xưởng, xóa đi vĩnh viễn vết tích của Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Đối với người sống mà chính quyền cộng sản còn cướp nhà, cướp đất của họ một cách trắng trợn thì đối với những người đã nằm xuống, họ nể gì mà không cướp? Cần phải báo động dư luận trong nước và quốc tế về nguy cơ này.

Sau khi có quyết định 1568/QĐ-TTg, một số người cho rằng đây là một bước "đổi mới"; có người cho là "quyết định khôn khéo", có người còn cho là thái độ "hòa giải"... Chẳng có gì là đổi mới, chẳng có gì là khôn khéo, cũng chẳng có gì là hòa giải cả. CSVN vẫn là CSVN. Tên cộng sản này trao Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa cho tên cộng sản khác. Quân sự hóa hay dân sự hóa thì cũng là trong tay CSVN. Những người nằm dưới các nấm mồ ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vẫn không yên giấc ngàn thu. Tết Đinh Hợi sắp đến, xin hãy cùng nhau thắp lên một nén nhang thơm cho những anh hùng tử sĩ đã bỏ mình nơi chiến địa và hứa với họ quyết tâm bảo vệ nơi an nghỉ ngàn thu của họ.

Chân dung Người Lính VNCH

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.

Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.

Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.


Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.

Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.

Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.

Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.


Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.

Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.

Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.

Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.

Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.

Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?


Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.

Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.

Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.

Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?

Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.


Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.

Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?

Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?

Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.

Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.

Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.

Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.

Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.

Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.


Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.

Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.

Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.

Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.

Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.

Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)

Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?

Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.

Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.

Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.

Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.

Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.

Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.

Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.

Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.

Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.



Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà.

Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.

Nguyễn Thị Thảo An

Nghĩa trang quốc gia VNCH tại Biên Hòa

NGHĨA TRANG QUỐC GIA VNCH TẠI BIÊN HÒA

Người Mỹ, dù thuộc thành phần hay thế hệ nào, trong thâm tâm ai cũng ao ước được một lần tới chiêm ngưỡng Nghĩa Trang Quốc Gia Hoa Kỳ tại Arlington, để biết ơn tấm lòng hy sinh cao quý của những anh hùng đã xả thân hy sinh cho quốc dân gấm vốc.

Trước tháng 5-1975, Nam VN cũng có một nghĩa trang Quốc Gia tại Biên Hòa, là chốn an giấc nghìn thu của hàng vạn chiến sĩ QLVNCH, đã hy sinh bản thân, gia đình mình, để ngăn chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản đệ tam quốc tế. Tất cả muôn đời trong dòng lịch sử Việt, những chiến binh ' vị quốc vong thân ', còn ai xứng đáng hơn họ ?

Ðược thành lập vào năm 1965, giữa một khu đất rộng, nằm trên một ngọn đồi thấp , khoảng giữa xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn. Khi VNCH bị cưỡng chiếm, trong nghĩa trang có hơn 16.000 mộ phần (8000 mộ đã xây xong), gồm đủ mọi binh chủng, thành phần, từ hàng binh sĩ tới cấp tướng. Ðã có 8 vị tướng lãnh được chôn tại đây (Tướng Trí, Hiếu, Ánh, Soạn, Ðổng, Phước...)

Nghĩa trang được thiết kế theo mô hình con ong. Trước cổng ngay lối vào có thiết kế pho tượng hình một người lính trận cao 5m, ngồi trên một bệ cao 3m, tất cả bằng đồng đen. Pho tượng mang tên là 'Tiếc Thương ', với ngụ ý là chỉ có người lính, mới biết thương cho thân phận của chính mình và các chiến hữu đồng đội, giữa một cái thế giới bạc đen vong ân bạc nghĩa của người miền nam lúc đó.

Trước khi vào khu vực nghĩa trang, mọi người phải qua một Cổng Tam Quan, phía trước Ðền Thờ Liệt Sĩ. Dựng trên một ngọn đồi thấp. Từ đó con đường chính, được chia thành hai lối và chạy vòng khắp khu vực, gặp nhau ở phần lô cuối cùng. Cũng trên ngọn đồi này, còn có Nghĩa Dũng Ðài, bên trên được xây một bia ký có hình lưỡi lê. Ngoài các tướng lãnh khi qua đời với bất cứ lý do gì, được an giấc trong một khu vực riêng kế Ðài. Còn tất cả chiến sĩ QLVNCH, không phân biệt quân binh chủng, cấp bậc... sẽ được an táng xung quanh.

Nghĩa trang QÐ Biên Hòa được hoàn thành qua sự phối họp của nhiều đơn vị gồm có : Bộ Công Chánh, Trường Kỹ Thuật Phú Thọ, Cục Công Binh, Liên Ðoàn 5 Công Binh Kiến Tạo... Riêng DD541 thuộc TD54CBKT là đơn vị trực tiếp thực hiện xây dựng. Khởi công từ tháng 11-1967 và dự trù hoàn tất vào ngày Quân Lực 19-6-1975.

Theo tài liệu, thì Nghĩa Trang QD. Biên Hòa chiếm một diện tích 125 ha, có thể chôn được 30.000 phần mộ, chia thành những vòng cung, với những mộ phần mang danh hiệu như A1, A2... B1, B2... Tính đến tháng 4-1975 đã có hơn 16.000 chiến sĩ QLVNCH các cấp an giấc tại đây, trong số này hơn 8.000 ngôi mộ, đủ cấp bậc, đã xây cất hoàn toàn rất đẹp và trang trọng.

Công trình xây cất nghĩa trang được dự trù sẽ khởi công tiếp giai đoạn 2, với ngân khoản lên tới 100 triệu tiền VNCH năm 1973, do Ðiêu Khắc Sư Lê Văn Mậu phụ trách trong 6 năm, để thực hiện một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, trên chiếc vành khăn tang, trên Nghĩa Dũng Ðài. Tác phẩm nghệ thuật này, sẽ ghi lại những trang lịch sử huy hoàng nhất trong dòng Việt Sử, gồm 16 giai đoạn quan trọng nhất, từ buổi bình minh các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang... cho tới các thành quả ngăn chống xâm lăng cộng sản của QLVNCH.

Một công trình lịch sử vĩ đại, tiếc thay đã chìm theo giấc mơ quang phục và thống nhất đất nước, khi giặc Hồ tràn vào. Sau ngày VNCH bị cưỡng chiếm, VC thẳng tay trả thù người sống lẫn kẽ chết. Hầu hết các nghĩa trang quân đội tại miền Nam từ Quảng Trị vào Hà Tiên, trong đó có Nghĩa Trang Quốc Gia Biên Hòa, đều bì giày mồ, tàn phá đồng thời ngăn cấm gia đình thân nhân lính đến thăm viếng sửa sang mộ phần.

Nhưng thê thãm nhất là việc mấy chục xác chết của tử sĩ VNCH, còn quàng tại Ðại Ðội Chung Sự, chưa kịp chôn cất thì mất nước. Sau đó VC bắt dân chúng đào ba hầm lớn, trên phần đất gần cuối nghĩa trang, để vùi dập và san bằng không cho đắp mộ.

Sau ngày 30-4-1975, VC cho xe tới kéo Tượng Thương Tiếc - đã bị xe tăng ủi sập từ trước - tới bỏ dưới sông Ðồng Nai trên xa lộ nhưng xe bị mắc lầy, vì vậy pho tượng được bỏ lại sát bờ sông. Năm 1976, VC lại kéo tượng bỏ trong sân vận động quận Dĩ An (Biên Hòa), sát Quốc Lộ 1 và không ai ngờ Tượng Người Lính này, lại trở nên thiêng liêng, được mọi người tới cúng vái cầu phước và xin bảo hộ. Chính vì vậy nên VC đem một thùng xe cũ tới úp kín pho tượng nhưng vẫn không ngăn cấm nổi mọi người tới cúng vái càng ngày càng thêm đông đảo, khiến cho VC ói gan, nên kéo đi mất dạng.


Tới năm 1983, theo lời kể của Lính Già Giữ Mộ, thì hầu hết các mộ bia Lính đều bị VC đập nát hình, chỉ còn để lại chữ. Gần một nửa bia bị xô ngã, số còn lại cũng bị nghiêng ngã xiêu vẹo. Riêng những bia tại phần mộ của 8 vị tướng lãnh, bị phá hủy hoàn toàn. Tàn độc hơn, vào năm 1985, VC còn tới nghĩa trang, cho nậy các phần mộ hình chữ nhật đúc bằng ciment trắng, đem về lót các lối đi, tại các cơ quan ở Sài Gòn, trong số này có bệnh việnTừ Dũ .

Lạ hơn là trong Nghĩa Trang, gần Trung Nghĩa Ðài, qua cuộc đời dâu bể trầm thống nhưng vẫn còn có một chòm bông giấy nhỏ, vẫn cứ vương mình tồn tại với thời gian. Theo những người biết chuyện, thì nơi này là phần mộ của Cố Trung Uý Phi Công Ngô Quang Lý, con trai trưởng của Cựu Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh Trưởng Bình Thuận.

Năm 1985, VC làm lễ ăn mừng 10 năm cưỡng chiếm được Miền Nam VN, có một số phóng viên ngoại quốc được mời vào quay phim chụp ảnh. Nhờ vậy Họ mới lẽn vào chụp lén được cảnh Nghĩa Trang bị tàn phá, đem ra ngoài phổ biến. Chắc vậy, nên VC mới đình chỉ hành động trả thù đê tiện trên. Sau đó là dịch vụ làm tiền của đảng, trả tiền cho cán bộ, để được dựng lại mộ bia và quét vôi mới trên các phần mộ đã bị đập phá trong máy năm vừa qua. Cuối năm 1988, VC lai loan tin sẽ ủi bằng Nghĩa Trang QÐ Biên Hòa, nên thân nhân Lính kéo tới bốc hơn 2000 ngôi mộ cho người thân. Tóm lại Nghĩa Trang QÐ Biên Hoà bây giờ, cỏ cây lau sậy gần như bịt kín các lối đi, tất cả chỉ còn lại cảnh tiêu điều hoang phế, ai nhìn thấy cũng phải đau lòng.

Năm 1978 em ruột Lê Ðức Thọ là Mai Chí Thọ, lúc đó làm thành ủy Sài Gòn, đã cùng với trùm công an Mười Hương, ra lệnh giải tổ Nghĩa Trang Mạc Ðỉnh Chi nằm giữa hai con đường Hiền Vương và Phan Thanh Giản. Nói cho văn chương là giải tỏa để lấy đất làm Cung Thiếu Nhi Lê Văn Tám, nhưng theo Bùi Tín, thì mặt thật là cướp mộ. Ai cũng biết nghĩa trang này tuy chỉ có khoảng 300 ngôi mộ nhưng lại toàn là thành phần thượng lưu giàu có của Miền Nam lúc đó nên đồ tẩn liệm trong quan tài, có rất nhiều châu báu vàng ngọc vô cùng quý giá. Nhờ vậy, Mai Chí Thọ cùng Mười Hương đã hốt của người chết rất nhiều vàng tiền.

Ký giả Gordon Dillow người Mỹ, trong một chuyến đi VN, ông đã tới tận Nghĩa Trang QÐ/VNCH ở Biên Hòa, nhìn tận mắt, nghe tại chỗ. Sau đó trở về Hoa Kỳ, đã viết một bài phóng sự, đăng trên tờ Orange Register ngày 22-3-1995, trùng họp với thời gian Cộng Ðồng Người Việt Tị Nạn đang xây dựng Ðài Tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH tại Little Sài Gòn. Ông viết ' .. Nhưng có lẽ không có nơi nào cần một Ðài Tưởng Niệm, cho bằng nơi một bãi đất ở Biên Hòa mà 20 năm trước, đây là Nghĩa Trang Quốc Gia lớn nhất, với Ðài Tưởng Niệm, dành cho các chiến sĩ Miền Nam VNCH chết trận. Bây giờ bãi đất này hoang vu, không được chăm sóc . Ðài tưởng niệm bị tróc sơn, hình thì không nguyên vẹn. Biết bao nhiêu mồ mã bị đào xới tan hoang, mất vĩnh viễn. Cũng theo bài viết, người ký giả Mỹ cho biết Cộng Sản đã cho khai quật nhiều ngôi mộ của QLVNCH, dùng dao đâm xác và móc mắt người đã chết, để trả thù ?'

Tất cả những hình ảnh thương xót nghẹn ngào trên, tin rằng bất cứ ai cũng phải căm hờn oán hận VC, cho tới giờ này, vẫn không chịu buông tha Những Nấm Xương Tàn, để cho Họ được nằm yên trong lòng đất.

Trước thảm cảnh mộ phần của đồng đội, đang bị giặc tiếp tục lăng nhục, giầy xéo và hũy diệt. Ðồng bào và tập thể Chiến Sĩ VNCH trong và ngoài nước, hãy đứng lên, xiết chặt vòng tay, để bảo vệ cho Những Chiến Sĩ Kính Yêu năm nào, đã xã thân liều mình, bảo vệ cho đồng bào và Miền nam VN, suốt 20 năm ngăn chống CSQT, để họ khỏi bị Rợ Hồ, làm cho xướng cốt vất vưỡng, hồn phách vật vờ. Ðược như vậy, cũng là một tấm lòng trả lại ân tình cho những người Lính Miền Nam bất hạnh.

Hỡi ôi ' Nghĩa tử là nghĩa tận ', chết coi như hết thù hận và xí xóa tất cả nợ nần mà người đó lúc sống đã gây ra. Nhưng cộng sản thì chết vẫn chưa hết, vẫn phải trả thù, trả nợ. Nên nói đông tây vẫn có thể gặp nhau là một chân lý. Còn cộng sản và quốc dân VN, thì vĩnh viễn không bao giờ có thể hòa hợp, hòa giải được. Bởi một đàng có tim óc tình người, còn một phía thì không tim óc và đã mất đi nhân tính, khi trót bị chủ thuyết vô thần Lê-Mác-Mao-Hồ đầu độc, nay lại thêm lòng tham vô đáy, nên không còn thuốc thang gì cứu được, ngoại trừ chúng chịu từ bỏ hẳn độc tài, độc đảng, độc trị và sự thù hận đồng loại, đồng bào, để trở về với truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt.

Nhưng chuyện này chăc không bao giờ xảy ra, trừ phi Người Việt trong và ngoài nước, noi gót Ðông Âu, Ðức Quốc và Liên Xô cũ, đồng tâm đoàn kết, mới mong lật đổ được chế độ Cộng Sản bạo tàn, còn sót lại trong thế giới văn minh của nhân loại .

Tháng Giêng 2007
Mường Giang

Trích một phần trong bài "Khi nghĩa trang Quân Đội VNCH bị VC lăng nhục vả hủy diệt", của Mường Giang viết trong www.diendantrunghochnc.com, ngày 31/01/2007.
Liên kết gốc: http://www.ntqd.4t.com/custom2.html

Gặp Tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng

GẶP TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG LẦN CUỐI CÙNG
TẠI BỘ TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN I (ĐÀ NẴNG)

Tối ngày 15-3-75, tôi hẹn gặp Hồ Văn Cường, Phó tỉnh trưởng Thừa Thiên tại Câu lạc bộ Thể Thao trên bờ của Tả ngạn sông Hương, Huế. Cường và tôi là bạn học đồng lớp, nên chơi thân với nhau khi chúng tôi cùng làm việc tại Huế. Tôi muốn gặp Cường để xem có tin gì mới về tình hình chiến sự và chính trị hay không. Dịp này tôi may mắn gặp được tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh tiền phương Quân đoàn I tại Huế, đang ngồi cùng bàn với Cường. Tôi cũng biết tướng Thi khi tôi đang dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia VN tại Đà Lạt (68-70).

Khi tôi nêu câu hỏi về tình hình, “liệu chúng ta có đủ lực lượng để đương đầu với sự tấn công của địch quân từ hướng bắc không?”. Tướng Thi tỏ vẻ tin tưởng là chúng ta có thể cầm cự được vì hiện tình hình chưa có gì đáng ngại.

Chúng tôi ngồi không lâu thì vội vã cáo từ ra về vì trong lòng tôi nỗi lo âu tràn ngập khi làn sóng người chạy loạn từ Quảng Trị đổ dồn về Huế ngày càng đông trong đó có cả gia đình ba má và các em tôi. Khi từ giã Cường tôi hỏi liệu có nên đem gia đình vào Đà Nẵng hay không? Cường nói là nên. Đêm đó tôi thuê xe để sáng mai (16.3) đưa ba má, các em và vợ con tôi vào Đà Nẵng.

Trên con đường từ Huế vào Đà Nẵng là cả một đoàn người di tản dài dằng dặc, xe cộ chỉ nhích từng chặng một nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng đến được Đà Nẵng vào lúc trời nhá nhem tối. Thành phố này giờ trông thật hổn độn, đoàn người tứ phương từ Quảng Trị, Huế đổ vào, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đổ ra tràn ngập trên các ngã đường và các trường học bây giờ là nơi tạm trú cho dân cư tứ xứ tập trung về đâỵ Chính quyền địa phương cũng đã làm hết sức để ổn định trật tự và chú tâm vào việc cứu trợ đồng bào tị nạn.

Qua sáng ngày 18-3-75 (?), sau khi ổn định tạm thời cho toàn đại gia đình ở trại tạm cư, tôi ghé lại trường Đại học Quảng Đà thăm giáo sư Ngô Đồng, viện trưởng trường Đại Học nàỵ Anh Đồng và tôi bàn định cùng nhau là nên tiếp tay chính quyền địa phương ổn định tình hình cứu trợ và đồng thời tìm cách động viên anh em binh sĩ đang cầm súng ở tiền tuyến. Chúng tôi đi đến quyết định thành lập “Ủy ban Nhân dân hậu phương yểm trợ tiền tuyến”, liên lạc với các tổ chức chính trị địa phương để mời tham gia và yểm trợ phương tiện. Chúng tôi dự định xin giờ phát thanh để phát đi lời kêu gọi của Ủy ban hầu động viên tinh thần chiến sĩ và trấn an tâm lý đồng bào đang hoảng loạn. Chúng tôi dự định đề cử giáo sư Ngô Đồng nắm giữ chức vị chủ tịch uỷ ban nàỵ
Chiều ngày 18-3-75 (?), khoảng 4 giờ anh Ngô Đồng và tôi cùng vào Bộ tư lệnh Quân Đoàn I, để thăm tướng Ngô Quang Trưởng, và nhân dịp trình bày cùng tướng Trưởng về ý định thành lập Ủy ban Yểm trợ Tiền tuyến của chúng tôi. Tôi đã gọi điện thoại cho trung tá Đức, chánh văn phòng của tướngTrưởng để nhờ sắp xếp cuộc gặp gỡ. Dù bận rộn với bao việc, tướng Ngô Quang Trưởng vẫn dành thì giờ tiếp giáo sư Ngô Đồng và tôị

Ở đây tôi xin mở dấu ngoặc để nói đến mối giao tình thân quý mà tướng Trưởng đã dành cho chúng tôi từ trước. Giáo sư Ngô Đồng vì làm viện trưởng đại học Quảng Đà nên thường gần gũi hàng ngày công việc giao tiếp với tướng Trưởng khi ông còn nắm giữ chức Tư Lệnh quân khu I kiêm đại biểu chính phủ tại vùng I đóng ở Đà Nẵng. Rìêng cá nhân tôi khi đổi về giảng dạy tại đại học Huế (70-75) có dịp trực tiếp gặp gỡ một số sĩ quan cao cấp ở vùng địa đầu giới tuyến và qua báo chí được biết về tướng Trưởng với rất nhiều huyền thoại, nhất là từ lúc tướng Trưởng chỉ huy lực lượng tái chiếm thành cổ Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa 1972. Chìến thắng vang dội này đã đưa tên tuổi tướng Trưởng lên cao và tướng Trưởng đã trở thành thần tượng trong lòng các chàng trai thế hệ trên dưới 30 tuổi như chúng tôi hồi đó.

Khi xuất bản quyển sách “34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu- (1691-1725)”, vào năm 1971, tôi đã gửi đến tướng Ngô Quang Trưởng bản đặc biệt in trên giấy trắng tinh với lời đề tặng trân trọng. Mỗi lần có dịp đi công tác vào Đại học Quảng Đà, tôi đều dành thì giờ ghé qua bộ tư lệnh thăm tướng Trưởng. Có lần tôi nhờ trung tá Đức báo lại với trung tướng là tôi trên đường đi Saigon chỉ ghé lại Đà Nẵng được 2 tiếng rồi phải ra sân bay cho kịp giờ phi cơ cất cánh. Thế mà trung tướng vẫn dành cho tôi buổi gặp gỡ hết sức thân tình dù tinh hình quân sự vào dạo đó rất là căng thẳng.
Trong thời gian phong trào chống tham nhũng của L.m. Trần Hữu Thanh lên cao mà anh em chúng tôi hồi đó được chỉ thị của trung ương (của một đảng chính trị) phải tích cực tham gia (khoảng 74-75), tôi được cấp trên ủy thác dò ý xem liệu tướng Trưởng có thể đứng đầu một hội đồng tướng lãnh đảo chánh ông Thiệu không? Và lần đó tôi đã ngồi nói chuyện với tướng Trưởng khá lâụ Trong câu chuyện, tôi xin trung tướng cho biết nhận xét của trung tướng về tình hình quân sư. tại vùng địa đầu giới tuyến, rồi nhân đó xin được biết ý nghĩ của ông về tình hình chính trị tại Sàigon khi phong trào chống Tổng thống Thiệu ngày càng lên cao. Tướng Trưởng tỏ ra hết sức kín đáo, không bộc lộ thái độ gì rõ rệt đối với giới cầm quyền trung ương, chỉ nói là ông ngày đêm lo bảo vệ an ninh vùng địa đầu nên ít quan tâm đến các biến chuyển chính trị. Khi tôi nhin thẳng vào mắt trung tướng và nói: “Thưa trung tướng, trong chính gìới và nhất là trong lớp thanh niên sinh viên trẻ tuổi mà tôi được nhiều dịp tiếp xúc, mọi người đều kỳ vọng trung tướng là người có thể làm chuyển đổi tình hình ngày càng xấu đi rõ rệt của miền Nam cả về quân sự lẫn chính trị.”

Tướng Ngô Quang Trươ?ng không nói gì. Ông đưa điếu thuốc lên môi rồi châm lửa đốt. Đôi mắt ông mơ màng nhìn theo khói thuốc tan loãng vào không trung... Thấy cuộc gặp gỡ cũng đã lâu và nhân dịp trung tá Đức, chánh văn phòng của ông vào trình công việc, tôi xin phép kiếu từ. Khi bắt tay, trung tướng nhìn tôi và nói: Tình hình khó khăn và phức tạp lắm giáo sư ạ. Có những điều mà mình tưởng là có thể thực hiện được trên chiến trường mà củng đành bó tay, huống hồ gì... Trung tướng ngừng ở đây không nói tiếp... chúng tôi xiết tay từ giã.

Bây giờ xin trở lại buổi gặp gỡ giữa trung tướng, giáo sư Ngô Đồng và tôi vào những ngày mà Đà Nẵng hấp hối và quân đoàn I coi như sắp sửa tan hàng.

Khi chúng tôi đến bộ tư lệnh quân đoàn khoảng 4 giờ chiều ngày 18-3-75 (?) thi trung tướng đã có mặt để tiếp chúng tôi. G.S. Ngô Đồng liền trình bày ngay dự định của chúng tôi muốn kêu gọi mọi thành phần dân chúng địa phương thành lập “Ủy ban nhân dân hậu phương yểm trợ tiền tuyến” để tỏ rõ sự đoàn kết quân dân một lòng trong việc bảo vệ quê hương. Tướng Trưởng tỏ ra hết sức xúc động. Tuy nhiên giọng ông buồn buồn: “Tình hình quân sự bây gìờ đang ngày càng trầm trọng. Việc giữ an ninh cho vòng đai chung quanh Đà Nẵng bây gìờ chỉ còn được tính từng ngày từng gìờ”. Trung tướng bày tỏ lòng cảm ơn về ý kiến của G.S. Ngô Đồng nhưng ông không có đề nghị gì hay thái độ hổ trợ tích cực cho dự định nàỵ Bây giờ sau hơn 1/4 thế kỷ, đọc lại lời trần tình của Trung tướng trên báo chi mới hay rằng việc mất Huế và Quân đoàn I cũng như mất Cao nguyên (vùng II) đã được tổng thống Thiệu quyết định và thông báo cho tướng Trưởng ngày 13-3-75 khi ông được TT Thiệu triệu tập về Dinh Độc Lập.

Xin hãy nghe tướng Trươ?ng kể lại:

”Ngày 13-03-1975, tôi được lệnh vào Sàigòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôị Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Saigon họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ có một minh tôi thôị Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi TT Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ quân đoàn I ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôị Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường sư đoàn Dù cùng với Thủy quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như những dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp nhận. Lệnh bất di bất dịch là: “Phải rút quân đoàn I càng sớm càng haỵ”

...Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin TT Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và vùng 1 Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiềụ

Tổng thống Thiệu rung động chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18-3-75, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó quân đoàn I) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị : Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên thừa lệnh TT yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Lệnh đó làm cho tôi chết lặng ngườị Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đâỵ Nhưng tôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướngThị Tướng Thi trả lời ngay: “Ơ? Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm saỏ”. Tôi buồn bã trả lời, “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được.” .Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng.

Xin xem thêm ở báo Chính Luận ở Seattle số 139 ra ngày 6-8-99 dưới tựa đề :”Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I” của tướng Ngô Quang Trưởng.

Xin trở lại buổi gặp gỡ cuối cùng tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I ngày 18-3-75 (?).. bắt tay tiễn chúng tôi ra khỏi bộ tư lệnh lúc đó khoảng 4 giờ 30, tôi nhìn kỹ tướng Trưởng thấy ông gầy hơn trước rất nhiều, đôi mắt sâu hơn dù vẫn còn linh động. Khi ra tới cửa, trung tướng nắm tay tôi và nói nhỏ :”Giáo sư nên đem gia đình vào Sài gòn càng sớm càng tốt”. Tôi nhìn thẳng vào ông và có cảm tưởng khó gặp lại vị tướng mà mình đã từng coi như là thần tượng. Và quả thật, từ lần gặp gỡ đó, cho đến mãi 20 năm sau (tháng 4/95) trong chuyến về thăm Hoa Thịnh Đốn, sau khi vừa đến Hoa Kỳ tôi mới gặp lại tướng Trưởng tại tư gia ở thành phố Springfield, Virginiạ

Sau khi liên lạc được với đại tá Đào Mộng Xuân (người rất gần gũi với tướngTrưởng ở hải ngoại), tôi xin đại tá thu xếp để tôi có dịp hạnh ngộ với tướngTrưởng sau 20 năm trời cách biệt. Tướng Trưởng hẹn gặp tại một quán phở (tôi không nhớ tên) ở Hoa Thịnh Đốn vào buổi trưa. Cùng đi với tôi lúc đó có giáo sư Nguyễn Lý Tưởng và anh Lê Quyền (chủ tịch ban Đại diện Cộng đồng Hoa Thịnh Đốn lúc ấy). Chúng tôi gặp lại nhau trong một hoàn cảnh thật bất ngờ. Tôi nắm chặt tay tướng Trưởng vẫn khuôn mặt khắc khổ đó vẫn dáng dấp cao và ốm đó, vẫn với đôi mắt sâu và sáng đó, 20 năm sau vẫn không có gì thay đổi, chỉ có mái tóc đã ngã màu muối tiêụ Sau khi dùng bữa ăn trưa nhẹ, anh Tưởng và anh Quyền chào từ giả, còn tôi lên xe về nhà tướng Trưởng ở Springfield và ở lại cho đến tối mịt mới từ giã ra về.

Có những chuyện gì để nhắc lại, để nói ra sau 2 thập niên xa cách?

Vừa bước vào cổng, chúng tôi gặp ngay bà Ngô Quang Trươ?ng. Bà vẫn còn giữ lại nét đẹp quý phái của ngày nàọ Tôi cúi đầu chào khi tướng Trưởng giới thiệụ Bà Trưởng đi vào trong một chốc rồi trở ra với hai tách cà phê sữa để trên bàn và một dĩa bánh bích quị Bây giờ tôi mới có thì giờ nói chuyện với tướng Trưởng nhiều hơn. Không có gì thú vị và quý bằng gặp lại cố nhân, nhất là khi ngồi trước mặt mình là con người mà 20 năm về trước là một vị tướng với hào quang sáng chói và nếu miền Nam không mất, biết đâu chừng tướng Trưởng sẽ đóng vai trò quan trọng trên giòng sử Việt. Quả thật, biết đâu chừng khi thế hệ trẻ như chúng tôi và bao lớp thanh niên sinh viên khác ở miền Nam đều coi tướng Trưởng là vị tướng không những hết sức tài ba mà lại còn rất trong sạch nữạ Tôi khỏi cần nhắc lại ở đây nhận xét của Đại tướng Mỹ Norman Schwazkopf trong cuốn sách hồi ký mang tên: “It does not take a hero”, trong đó có đoạn khá dài dành để ca ngợi thiên tài quân sự của tướng Trưởng khi ông này còn là đại tá và tướng Norman là thiếu tá cố vấn.

Tướng Trươ?ng vẫn giữ thói quen hút thuốc lá liên miên như 20 năm trước, khiến tôi trong câu chuyện hàn huyên và bên cốc cà phê bốc khói mà bên ngoài thì mưa lâm râm như bầu trời ở quê nhà, cũng đã phì phà điếu thuốc phả khói mông lung. Có điều tôi không thấy bà Trưởng tỏ dấu phiền hà gì cả khi khói thuốc tràn ngập cả phòng khách.

Sau những han hỏi về gia đình, con cái, tôi nói với tướng Trưởng là tôi định viết cuốn sách về chiến tranh VN và hy vọng tướng Trưởng sẽ là một trong những nhân chứng sống vào giai đoạn sụp đổ của nền Đệ II Cộng Hòạ Trong câu chuyện, tôi đề nghị tướng Trưởng nên viết lại hồi ký để giúp cho các nhà sử học sau này có nhiều tư liệụ Tướng Trưởng cho biết là bè bạn đã thúc đẩy ông làm việc này nhưng ông vẫn cứ đắn đo mãi vì sự thật khi phải nói ra sẽ mất lòng nhiều ngườị Và giọng ông trầm xuống buồn buồn: “Trong tâm tư sâu thẳm, tôi vẫn cảm thấy mình có tội với Tổ quốc, với người dân khi không bảo vệ được vùng đất mà mình trách nhiệm. Nỗi buồn càng lớn hơn khi mình vượt thoát ra được nước ngoài trong khi biết bao chiến hữu của mình phải vào các nhà tù khổ sai, số khác phải bỏ mình trên đường vượt thoát...” Tôi kính trọng ý nghĩ đầy tinh thần trách nhiệm này của Trung tướng. Tôi tin rằng lịch sử rất công minh khi luận xét công tội của những ai thực sự chịu trách nhiệm trong việc sụp đổ của chế độ Cộng Hòa tại Miền Nam.

Gặp tướng Trưởng lần cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đóng ở Đà Nẵng vào tháng 3-75 rồi đến 20 năm sau vào tháng 4-95, tôi mới có dịp gặp lại vị tướng mà mình hết lòng quý trọng trong chuyến về thăm Hoa Thịnh Đốn khi tôi vừa mới đến Hoa Kỳ theo diện HO 28 (tháng 11-94). Hai thập niên không là bao so với chiều dài của lịch sử dân tộc, nhưng 20 năm so với đời người thì đâu phải là ngắn ngủi, nhất là 20 năm đầy thăng trầm dâu biển của một thân phận tù đầy trên quê nhà tăm tốị Gặp nhau trên một đất nước xa quê nhà cả một đại dương mênh mông quả là điều vươ.t quá mong ước của con ngườị Thế mà điều này trong thực tế, đã trở thành hiện thực.

Le Dinh Cai ghi lại
San Jose, những ngày hồi tưởng lại tháng Tư đen 1975...
Liên kết gốc: http://bgkq.net/hoiky/ngoquangtruong.htm